Từ ‘bùng binh’, ‘vòng xoay’ đến ‘vòng xuyến’: nhập gia nên tùy tục

Biển báo vòng xuyến Nguyễn Thái Sơn gây tranh cãi – Ảnh N.C.T.

Đa số quan điểm không đống ý với việc dùng từ ” vòng xuyến ” thay cho “ vòng xoay ” hay “ bùng binh ” ở Hồ Chí Minh .
Trong Tự điển Nước Ta đại trà phổ thông của tác giả Đào Văn Tập do Nhà in Vinh Bảo in xong tại TP HCM ngày 10-6-1952 không có định nghĩa cho “ vòng xoay ” hay “ vòng xuyến ” ; “ bùng binh ” cũng không có trong tự điển này .

Cũng dễ hiểu vì thiết kế giao thông ở Sài Gòn bấy giờ chủ yếu là các ngã ba, ngã tư đường. Tìm hiểu trong Từ điển tiếng Việt do Viện ngôn ngữ học thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam do Trung tâm Từ điển ngôn ngữ ấn bản tại Hà Nội năm 1992 cũng chỉ có định nghĩa về hai chữ “bùng binh’ mà thôi.

Càng về sau theo thời hạn, tiếng Việt càng phong phú và đa dạng và phong phú. Các từ ngữ tượng hình cũng không nằm ngoài quy luật đó và mê hoặc thêm nhờ cách gọi của từng vùng miền. Gần đây nhất là những từ điển tiếng Việt … trên mạng ( mạng vốn nhanh ) thì chữ vòng xoay hay bùng binh đã Open và đều để chỉ vòng xoay giao thông vận tải, quốc tế gọi “ traffic circle ” .
Từ “ vòng xuyến ” không Open trên nhiều loại từ điển tiếng Việt. Nhưng tựu trung – bùng binh, vòng xoay hay vòng xuyến gì cũng đều nhằm mục đích để chỉ nơi có tối thiểu năm ngả đường tỏa đi những hướng, nên được dùng để phân biệt với những ngã ba, ngã tư .
Một số bạn đọc cho rằng dùng từ “ vòng xuyến ” là đúng vì được sử dụng trong … văn bản Luật giao thông vận tải. Nhưng việc tra cứu, thống nhất định nghĩa về từ ngữ thì không hề theo … Luật giao thông vận tải, mà phải dùng từ điển .
Vì vậy tôi cho rằng có lẽ rằng trước khi làm luật – cơ quan soạn luật nên nghiên cứu và điều tra thêm Từ điển tiếng Việt để chọn từ ngữ đúng mực .
Với cách dùng “ vòng xuyến ”, thì chữ “ xuyến ” là theo một từ mà những từ điển tiếng Việt định nghĩa là “ một vòng trang sức đẹp bằng sắt kẽm kim loại ( thường là bằng vàng hay ngọc ) mà phụ nữ đeo ở tay ”. Vì thế Luật giao thông vận tải sử dụng từ vòng xuyến – để chỉ nơi có tối thiểu năm ngả đường tỏa đi những hướng – sẽ không ổn .
Thay vào đó nên dùng những từ “ bùng binh ” ( có quan điểm cho là gốc từ tiếng Pháp – rond-point : điểm tròn ) hay “ vòng xoay ” vì cũng sát nghĩa với từ quốc tế “ traffic circle ” – vòng xoay giao thông vận tải .
Có thể là từ “ vòng xuyến ” người miền Bắc dùng để chỉ vừa là món trang sức đẹp, vừa là … ” traffic circle ”. Nhưng không hề đem cái gì đó của vùng miền này mà áp đặt trong những văn bản luật. Và càng không hề bắt những vùng miền khác phải tuân theo mà phải tôn trọng tính phong phú và nhiều mẫu mã của tiếng Việt theo từng vùng miền .
Cán bộ kháng chiến ta xưa đến vùng miền nào, một trong những nhu yếu tiên phong là học và nói theo phương ngữ của vùng miền đó để thân thiện với bà con. Tôi không hề đến nhà một người bạn thân vốn là dân TP. Hà Nội mà bắt bạn mình dùng chữ chén thay cho chữ bát, dùng chữ mền thay cho chữ chăn được .
Đó cũng là cách tôn trọng người dân địa phương ; tôn trọng phương ngữ vùng miền vốn tạo nên truyền thống ngôn từ đa đạng, đa dạng và phong phú tuyệt vời trên quốc gia ta .
* Bài viết biểu lộ quan điểm của tác giả – một bạn đọc .

Từ bùng binh đến bồn binh và vòng xoay – vòng xuyến

Bùng binh : từ này Open sớm trong ngôn từ Nam bộ. Theo ghi nhận của Huỳnh Tịnh Paulus Của trong bộ Đại Nam quấc âm tự vị xuất bản năm 1895 thì Bùng binh là “ Khúc sông to lớn mà tròn ”. Ở TP HCM từng có địa điểm Rạch Bùng Binh, nay là đường Rạch Bùng Binh ( P. 10, Q. 3 ) .
Tuy nhiên, để chỉ vị trí điểm giao của nhiều con đường yên cầu xe cộ đến đó phải đi theo chiều lao lý ( thường là ngược chiều kim đồng hồ đeo tay ), tiếng Việt trước đây có từ “ bồn binh ” .
Từ này được nhóm tác giả Lê Văn Đức – Lê Ngọc Trụ ghi nhận trong bộ Nước Ta tự điển ( Khai Trí xuất bản tại TP HCM năm 1970 ) : “ Bồn binh : Công trường, mối đường to lớn trong thành phố có hoặc không có trồng kiểng hay trụ đèn ở giữa để tiện việc lưu thông một chiều ”. Từ điển này cũng ghi nhận “ bồn binh ” có từ đồng nghĩa là “ bùng binh ” .
Tuy nhiên từ sau năm 1975 từ bồn binh ít thấy Open trong những văn bản, thay vào đó là từ “ bùng binh ” mang nghĩa tương tự với “ bồn binh ” trên đây .
Điều này được ghi nhận tại Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển học – Vietlex ( NXB Thành Phố Đà Nẵng ấn hành năm 2009 ) : “ Bùng binh : Vòng tròn được vây cao [ thường có hoa, hoa lá cây cảnh bên trong ] nằm ở giữa những ngả đường giao nhau để làm mốc cho xe cộ lưu thông ” .
Trong những năm gần đây, trên những phương tiện đi lại truyền thông online Open từ “ vòng xoay ” với nghĩa tương tự từ “ bùng binh ” nói trên .
Theo tiến sỹ Nguyễn Thị Hậu, trước năm 1975 ở miền Bắc không có từ vòng xoay, mà cũng không có thực thể vị trí giao thông vận tải nào như là bùng binh trong Nam, chỉ có những ngã tư .
Trong Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển học – Vietlex cũng không ghi nhận mục từ “ vòng xoay ” .
Còn từ “ vòng xuyến ” thì có lẽ sinh ra còn muộn hơn “ vòng xoay ” .

Hiện nay Từ điển tiếng Việt (2009) nói trên cũng chưa ghi nhận từ “vòng xuyến”, nhưng trong Luật giao thông đường bộ 2008 và Luật giao thông đường bộ 2015 đều sử dụng từ “vòng xuyến” (tại khoản 1 và 2 của điều 24). Dù vậy, trong hai văn bản Luật giao thông đường bộ này đều có phần “giải thích từ ngữ” với 32 đơn vị từ ngữ được giải thích, trong đó không có từ “vòng xuyến”.

LAM ĐIỀN

Rate this post