Phong trào Cần Vương – Wikipedia tiếng Việt

Phong trào Cần Vương (Chữ Nôm: 風潮勤王) nổ ra vào cuối thế kỷ 19 do đại thần nhà Nguyễn là Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi đề xướng trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp.

Nguồn gốc sinh ra chiếu Cần Vương[sửa|sửa mã nguồn]

Tôn Thất Thuyết chủ trương chống Pháp[sửa|sửa mã nguồn]

Tại triều đình Huế, sau khi vua Tự Đức mất ( tháng 7 năm 1883 ) thì sự phân hóa trong nội bộ đình thần, quan lại nhà Nguyễn càng thâm thúy, triều đình phân hóa thành 2 phe rõ ràng – phe chủ chiến và phe chủ hòa. Phe chủ chiến nhất quyết không khuất phục thực dân Pháp, muốn cứu lấy sự sống sót của quốc gia, của triều đình. Còn phe chủ hòa sẵn sàng chuẩn bị quy thuận và hợp tác với Pháp để bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ giai cấp. Đứng đầu phe chủ chiến là Tôn Thất Thuyết. Tôn Thất Thuyết là Thượng thư Bộ binh, nắm giữ quân đội trong tay và là nhân vật quan trọng nhất trong Hội đồng phụ chính. Ngoài ra, Tôn Thất Thuyết còn có liên hệ mật thiết với nhiều thủ lĩnh nghĩa quân chống Pháp. Tôn Thất Thuyết quyết tâm kiến thiết xây dựng, củng cố lực lượng để quyết chiến với thực dân Pháp. Ông cho xây dựng một mạng lưới hệ thống sơn phòng từ Quảng Trị đến Tỉnh Ninh Bình và từ Quảng Nam đến Bình Thuận ; chiêu mộ thêm nghĩa binh, tăng cường thiết kế xây dựng đồn lũy. Tại Huế, ông cho củng cố quân đội và lập thêm 2 đạo quân đặc biệt quan trọng – Phấn Nghĩa quân và Đoàn Kiệt quân. Đây là đội quân cơ động, tinh nhuệ nhất trong những cuộc cạnh tranh đối đầu với Pháp và bảo vệ vua cùng Hội đồng phụ chính .Ngày 31 tháng 7 năm 1884, Tôn Thất Thuyết cho phế truất vua Kiến Phúc – một ông vua có tư tưởng thân Pháp – và đưa Ưng Lịch mới 14 tuổi lên ngôi, lấy hiệu là Hàm Nghi .

Pháp chiếm kinh thành Huế[sửa|sửa mã nguồn]

Cuối năm 1884, giữa lúc quân Pháp đang khốn đốn ở Bắc Kỳ, phe chủ chiến ở Huế, đứng đầu là Tôn Thất Thuyết, lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi phản đối việc 300 quân Pháp kéo vào Huế lập căn cứ Mang Cá ngay trong Hoàng thành. Đáp lại Pháp cho tăng thêm số quân đóng ở Mang Cá lên hàng ngàn tên.

Tôn Thất Thuyết huy động số quân còn lại ở những địa phương tập trung chuyên sâu về Huế, bí hiểm tổ chức triển khai một cuộc phản công. Dò biết tình hình, ngày 27 tháng 6 năm 1885, De Courcy ( tổng chỉ huy vừa được cử sang ) đem 4 đại đội và 2 tàu chiến từ TP. Hải Phòng vào thẳng Huế nhằm mục đích loại trừ phe chủ chiến, dự tính bắt cóc Tôn Thất Thuyết .Ngày 2 tháng 7 năm 1885, De Courcy đến Thuận An rồi lên Huế, nhu yếu Hội đồng phụ chính đến hội thương. Tôn Thất Thuyết cáo bệnh không đến, hối hả kiểm soát và chấn chỉnh quân sĩ, đào hào đắp lũy trong thành, sắp xếp hai đạo quân đặc biệt quan trọng phòng thủ hoàng thành, nhằm mục đích giành thế dữ thế chủ động trước khi De Courcy bày đặt việc triều yết vua Hàm Nghi để đột nhập hoàng thành .Đêm ngày 4 tháng 7 năm 1885, giữa lúc De Courcy đang dự tiệc ở sứ quán bên kia sông Hương và bàn kế đột nhập kinh thành Huế thì Tôn Thất Thuyết bí hiểm chia quân làm hai cánh. Cánh thứ nhất ( do Tôn Thất Lệ chỉ huy ) có trách nhiệm tấn công sứ quán Pháp. Cánh thứ hai ( do Tôn Thất Thuyết đích thân chỉ huy ) sẽ đánh úp tàn phá hàng loạt lính Pháp ở đồn Mang Cá .Biết trước thủ đoạn của giặc nên mặc dầu việc chuẩn bị sẵn sàng chưa thật không thiếu, Tôn Thất Thuyết vẫn nổ súng trước nhằm mục đích giành thế dữ thế chủ động cho cuộc tiến công. Đúng 1 giờ sáng ngày 5 tháng 7 năm 1885, trong cảnh khuya lạng lẽ của kinh thành Huế, bỗng có tiếng súng thần công nổ rầm trời. Lệnh phát hỏa vừa dứt, đồn Mang Cá bốc cháy, quân ta đột nhập đồn, lính Pháp rối loạn, vài sĩ quan bị thương, bị chết. Đồng thời sứ quán Pháp bên kia sông Hương cũng bị tiến công, những trại lính địch bốc cháy kinh hoàng. De Courcy đối phó cầm chừng, chờ sáng. Trại Mang Cá, tận dụng quân Nguyễn chuyển hướng tiến công sang sứ quán, quân Pháp kéo 3 đội quân vào chiếm thành Huế, đốt phá dinh thự, tàn sát dân chúng, vượt qua những ổ phục kích lọt được vào hoàng thành .Quân Pháp đã trắng trợn cướp bóc của cải và tàn sát vô cùng dã man nhiều người dân vô tội trên đường tiến quân. Trong ngày hôm đó, phần đông nhà nào cũng có người bị giết. Do vậy từ đó về sau, hằng năm Nhân dân Huế đã lấy ngày 23 tháng 5 Âm lịch làm ngày giỗ chung .Không chỉ hàng vạn người bị giết hại mà kinh thành Huế còn bị cướp đi phần nhiều những gia tài quý báu nhất. Quân Pháp chiếm được 1 số ít lớn của cải mà triều đình chưa kịp chuyển đi, gồm 2,6 tấn vàng và 30 tấn bạc, trong số này chỉ có một phần rất nhỏ sau này được hoàn trả cho triều đình Huế. Còn lại, số 700.000 lạng bạc phải được 5 lính Pháp đóng hòm trong 5 ngày mới xong và chở về Pháp. [ 1 ]

Linh mục Père Siefert Khanhngu, nhân chứng sự kiện này đã ghi lại: “Kho tàng trong hoàng cung đã mất đi gần 24 triệu quan vàng và bạc… Cuộc cướp cạn ấy kéo dài trong 2 tháng còn gây tai tiếng hơn cuộc cướp phá Cung điện Mùa Hè của Thanh Đế ở Bắc Kinh”. Cũng theo Père Siefert, khi đối chiếu với bảng kiểm kê tài sản của hoàng gia, thì quân Pháp đã cướp “228 viên kim cương, 266 món nữ trang có nạm kim cương, hạt trai, hạt ngọc, 271 đồ bằng vàng trong cung của bà Từ Dụ. Tại các tôn miếu thờ các vua… thì hầu hết các thứ có thể mang đi… đều bị cướp”[2]

Quốc sử quán triều Nguyễn ghi: riêng tại Phủ Nội vụ ở tầng dưới cất giữ 91.424 thỏi bạc đỉnh 10 lạng, 78.960 thỏi bạc đỉnh 1 lạng; tầng trên cất giữ khoảng 500 lạng vàng, khoảng 700.000 lạng bạc; kho gần cửa Thọ Chỉ cất giữ 898 lạng vàng, 3.400 lạng bạc. Toàn bộ số vàng bạc này đã bị Pháp chiếm. Tướng De Courcy, chỉ huy cuộc tấn công vào kinh đô Huế, ngày 24/7/1885 đã gửi cho chính phủ Pháp một bức điện với nội dung sau: “Trị giá phỏng chừng các quý vật bằng vàng hay bằng bạc dấu kỹ trong các hầm kín là 9 triệu quan. Đã khám phá thêm nhiều ấn tín và kim sách đáng giá bạc triệu. Xúc tiến rất khó khăn việc tập trung những kho tàng mỹ thuật. Cần cử sang đây một chiếc tàu cùng nhiều nhân viên thành thạo để mang về mọi thứ cùng với kho tàng”. Ngoài ra, trong quá trình quân Pháp truy đuổi Tôn Thất Thuyết từ tháng 7/1885, đã thu giữ ở tỉnh Quảng Trị 34 hòm bạc chứa 36.557 tiền bạc và 6 hòm bạc chứa 196 thỏi bạc, mỗi thỏi 10 lạng và 18.696 tiền bạc[2].

Vua Hàm Nghi ra chiếu Cần Vương[sửa|sửa mã nguồn]

Sáng mùng 5 tháng 7, Tôn Thất Thuyết đã đưa vua Hàm Nghi cùng đoàn tùy tùng đời kinh đô Huế chạy ra sơn phòng Tân Sở ( Quảng Trị ). Tại đây, ngày 13 tháng 7 năm 1885, Tôn Thất Thuyết, lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi, đã hạ chiếu Cần Vương lần thứ nhất. Ở Quảng Trị một thời hạn, để tránh sự truy lùng gắt gao của quân Pháp, Tôn Thất Thuyết lại đưa Hàm Nghi vượt qua đất Lào đến sơn phòng Ấu Sơn ( Hương Khê, TP Hà Tĩnh ). Tại đây, Hàm Nghi lại xuống chiếu Cần Vương lần hai ngày 20 tháng 9 năm 1885 .Hai tờ chiếu này tập trung chuyên sâu tố cáo thủ đoạn xâm lược Nước Ta của thực dân Pháp, đồng thời lôi kéo sĩ phu, văn thân và nhân dân cả nước đứng lên kháng chiến giúp vua bảo vệ quê nhà quốc gia .Mặc dù diễn ra dưới danh nghĩa Cần Vương, thực tiễn đây là một trào lưu đấu tranh yêu nước chống Pháp xâm lược của Nhân dân Nước Ta. Trong thời kì này, trọn vẹn vắng mặt sự tham gia của quân đội triều đình. Lãnh đạo những cuộc khởi nghĩa Cần Vương không phải là những võ quan triều Nguyễn như trong thời kỳ đầu chống Pháp, mà là những sĩ phu văn thân yêu nước có chung một nỗi đau mất nước với quần chúng lao động, nên đã tự nguyện đứng về phía nhân dân chống Pháp xâm lược. Phong trào Cần Vương bùng nổ từ sau sự biến kinh thành Huế vào đầu tháng 7 năm 1885 và tăng trưởng qua hai quy trình tiến độ :

  • Giai đoạn thứ nhất từ lúc có chiếu Cần Vương đến khi vua Hàm Nghi bị bắt (11/1888)
  • Giai đoạn thứ hai kéo dài tới khi khởi nghĩa Hương Khê thất bại (1896).

Cần vương mang nghĩa “giúp vua”. Trong lịch sử Việt Nam, trước thời nhà Nguyễn từng có những lực lượng nhân danh giúp nhà vua phát sinh như thời Lê sơ, các cánh quân hưởng ứng lời kêu gọi của vua Lê Chiêu Tông chống lại quyền thần Mạc Đăng Dung. Tuy nhiên, phong trào này không để lại nhiều dấu ấn và khi nhắc tới Cần Vương thường được hiểu là phong trào chống Pháp xâm lược.

Phong trào lôi cuốn được 1 số ít những quan lại trong triều đình và văn thân. Ngoài ra, trào lưu còn lôi cuốn phần đông những những tầng lớp sĩ phu yêu nước thời bấy giờ. Phong trào Cần Vương thực ra đã trở thành một mạng lưới hệ thống những cuộc khởi nghĩa vũ trang trên khắp cả nước, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, lê dài từ năm 1885 cho đến năm 1896 .

Các cuộc khởi nghĩa trong trào lưu Cần Vương[sửa|sửa mã nguồn]

Hưởng ứng chiếu Cần Vương, nhân dân ta ở khắp nơi, dưới sự chỉ huy của những sĩ phu văn thân yêu nước, đã sôi sục đứng lên chống Pháp :

Đêm ngày 30 tháng 10 năm 1888, vua Hàm Nghi bị người Pháp bắt trong lúc mọi người đang ngủ say. Bắt được vua Hàm Nghi thực dân Pháp ra sức dụ dỗ thuyết phục, mua chuộc nhà vua trẻ cộng tác với chúng nhưng vua Hàm Nghi đã từ chối quyết liệt. Không mua chuộc được vua Hàm nghi thực dân Pháp quyết định đưa vua Hàm Nghi đi đày tại Algeria, một thuộc địa của Pháp ở Bắc Phi (châu Phi), các cuộc khởi nghĩa chống Pháp vẫn tiếp tục. Tuy nhiên, phong trào Cần Vương suy yếu dần; từng cuộc khởi nghĩa lần lượt bị tiêu diệt. Từ cuối năm 1895 đầu 1896, khi tiếng súng cuộc khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng thất bại, phong trào Cần Vương coi như chấm dứt.

Nguyên nhân thất bại[sửa|sửa mã nguồn]

Tác giả Nguyễn Thế Anh trong sách Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các triều vua nhà Nguyễn nêu các nguyên nhân thất bại của phong trào Cần Vương:

  1. Tính chất địa phương: sự thất bại của phong trào Cần Vương có nguyên nhân từ sự kháng cự chỉ có tính chất địa phương. Các phong trào chưa quy tụ, tập hợp thành một khối thống nhất đủ mạnh để chống Pháp. Các lãnh tụ Cần Vương chỉ có uy tín tại nơi họ xuất thân, tinh thần địa phương mạnh mẽ làm họ chống lại mọi sự thống nhất phong trào trên quy mô lớn hơn. Khi các lãnh tụ bị bắt hay chết thì quân của họ hoặc giải tán hay đầu hàng.[3]
  2. Quan hệ với dân chúng: các đạo quân này không được lòng dân quê nhiều lắm bởi để có phương tiện sống và duy trì chiến đấu, họ phải đi cướp phá dân chúng.[3]
  3. Mâu thuẫn với tôn giáo: sự tàn sát vô cớ những người Công giáo của quân Cần Vương khiến giáo dân phải tự vệ bằng cách thông báo tin tức cho phía Pháp. Những thống kê của người Pháp cho biết có hơn 20.000 giáo dân đã bị quân Cần Vương giết hại.[4]
  4. Mâu thuẫn sắc tộc: Chính sách sa thải các quan chức Việt và cho các dân tộc thiểu số được quyền tự trị rộng rãi cũng làm cho các sắc dân này đứng về phía Pháp. Chính người Thượng đã bắt Hàm Nghi, các bộ lạc Thái, Mán, Mèo, Nùng, Thổ đều đã cắt đường liên lạc của quân Cần Vương với Trung Hoa làm cạn nguồn khí giới của họ. Quen thuộc rừng núi, họ cũng giúp quân Pháp chiến tranh phản du kích đầy hiệu quả.[5]

Theo Đào Duy Anh, ngoài việc thiếu link và thống nhất về tổ chức triển khai ( tương tự như như ” đặc thù địa phương ” mà Nguyễn Thế Anh phản ánh ), trào lưu Cần Vương còn có những nguyên do thất bại khác [ 6 ] :

  1. Nền sản xuất lạc hậu, kém phát triển làm nền tảng, vì vậy vũ khí thô sơ không thể chống lại vũ khí hiện đại của Pháp.
  2. Lực lượng và chiến thuật: các cuộc khởi nghĩa không đủ mạnh, chỉ có thể tấn công vào những chỗ yếu, sơ hở của địch; không đủ khả năng thực hiện chiến tranh trực diện với lực lượng chính quy của địch.
  3. Tinh thần chiến đấu: Ngoại trừ một số thủ lĩnh có tinh thần chiến đấu đến cùng và chết vì nước, không ít thủ lĩnh quân khởi nghĩa nhanh chóng buông vũ khí đầu hàng khi tương quan lực lượng bắt đầu bất lợi cho quân khởi nghĩa, khiến phong trào nhanh chóng suy yếu và tan rã.
  • Nguyễn Thế Anh (2008), Kinh tế & xã hội Việt Nam dưới các triều vua nhà Nguyễn, Nhà xuất bản Văn Học.
  • Đào Duy Anh (2007), Lịch sử Việt Nam từ thời cổ đại đến thế kỷ XIX, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin.
Rate this post