Chửa trứng toàn phần là gì?

Chửa trứng gây ra những tác hại khôn lường, và ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản đối với phụ nữ nếu như không được phát hiện và điều trị tốt. Chửa trứng chia thành 2 loại là chửa trứng hoàn toàn và chửa trứng bán phần.

1. Chửa trứng toàn phần là gì?

Nhau thai có nhiệm vụ nuôi dưỡng bào thai trong thời kỳ thai nghén. Khi nhau thai sản sinh quá mức, phát triển thành khối không kiểm soát được tạo thành các nang trông như các quả trứng hoặc chùm nho nên được gọi là chửa trứng.

Có 2 loại chửa trứng là chửa trứng toàn phầnchửa trứng bán phần. Trong đó, chửa trứng toàn phần là trứng sẽ không có tổ chức thai, các gai rau phình to, mạch máu lông rau biến mất, lớp tế bào nuôi tăng sinh mạnh.

Nguyên nhân gây ra chửa trứng toàn phần là do sự kết hợp của một tinh trùng bình thường với một trứng không chứa thông tin di truyền. Chính sự khiếm khuyết về hệ thống di truyền nên nó không thể phát triển thành một thai nhi bình thường được, mà thay vào đó là sự phát triển của một thai trứng không có phôi thai.

Chửa trứng là bệnh lành tính tuy nhiên chửa trứng toàn phần có 15% trở thành ung thư nguyên bào nuôi.

2. Chẩn đoán chửa trứng toàn phần

Ban đầu, phụ nữ bị chửa trứng cũng có những bộc lộ như mang thai thông thường. Tuy nhiên, những người chửa trứng thường bị nghén rất nặng, nôn nhiều, và người gầy gò, xanh lè. Một số sản phụ còn bị phù nề và tăng huyết áp. Sản phụ sẽ bị chảy máu âm đạo, máu thường có màu đen hoặc đỏ, dai dẳng vào khoảng chừng từ tuần thai thứ 6 đến tuần 16 của thai kỳ. Bác sĩ hoàn toàn có thể chỉ định một số ít xét nghiệm gồm có :

  • Siêu âm: Trên siêu âm thấy hình ảnh tuyết rơi hoặc lỗ chỗ như tổ ong, có thể thấy nang hoàng tuyến hai bên, không thấy phôi thai khi bị chửa trứng toàn phần. Trong chửa trứng bán phần thì khó phân biệt hơn với thai lưu, có thể thấy một phần bánh rau bất thường.
  • Định lượng β-hCG: Là xét nghiệm cơ bản để chẩn đoán và theo dõi chửa trứng. Lượng β-hCG tăng trên 100 000 mUI/ml.
  • Định lượng estrogen: Trong nước tiểu estrogen dưới dạng các estrone, estradiol hay estriol đều thấp hơn trong thai thường, do sự rối loạn chế tiết của rau và do không có sự biến đổi estradiol và estriol xảy ra ở tuyến thượng thận của thai nhi. Nhưng ít ý nghĩa và không sử dụng trong thực tế vì sự khác biệt này chỉ thấy rõ khi tuổi thai từ 14 tuần trở lên.
  • Xét nghiệm định lượng HPL: lượng HPL thấp trong chửa trứng nhưng thường cao trong thai thường.
  • Giải phẫu bệnh: Chửa trứng toàn phần có toàn bộ gai rau phát triển thành các nang trứng. Các gai rau phù và thoái hóa nước trục liên kết, không còn các tế bào xơ, sợi và các huyết quản. Trục liên kết chứa dịch trong. Các nguyên bào nuôi quá sản nhiều hàng (hình thái giống các nguyên bào nuôi bình thường tuy nhiên cũng có thể gặp một số nguyên bào nuôi có nhân không điển hình hoặc các hình nhân chia), mất cân đối giữa tỷ lệ hợp bào nuôi và nguyên bào nuôi. Hình thành các đám nguyên bào nuôi tự do

Chửa trứng toàn phần

3. Chửa trứng toàn phần có nguy hiểm không?

Chửa trứng là bệnh lành tính, tuy nhiên có khoảng 15% trường hợp mắc chửa trứng toàn phần dẫn tới ung thư nguyên bào nuôi, u nguyên bào nuôi vị trí rau bám hoặc u nguyên bào nuôi dạng biểu mô. Chửa trứng toàn phần nói riêng và chửa trứng nói chung nếu không được phát hiện và điều trị sớm thì sẽ dẫn tới nhiều biến chứng nguy hiểm cho sản phụ ví dụ như mất máu, suy dinh dưỡng, băng huyết khi mang thai hoặc do thai ăn sâu vào tử cung gây chảy máu dữ dội trong ổ bụng.

4. Điều trị và phòng ngừa chửa trứng toàn phần

4.1 Nạo hút thai trứng

Khi đã chẩn đoán xác định tiến hành nong nạo hoặc hút trứng càng sớm càng tốt.

  • Truyền oxytocin co hồi tử cung trong và sau thủ thuật và kháng sinh phòng nhiễm khuẩn.
  • Gửi giải phẫu bệnh lý tổ chức mô nạo.
  • Theo dõi sau thủ thuật theo lịch Beta hCG và siêu âm theo lịch
  • Nên tránh thai trong 2 năm

4.2 Phẫu thuật cắt tử cung dự phòng

Cắt tử cung toàn phần cả khối hoặc cắt tử cung toàn phần sau nạo hút trứng thường được áp dụng ở các phụ nữ không muốn có con nữa hoặc trên 40 tuổi và trường hợp chửa trứng xâm lấn làm thủng tử cung.

4.3 Theo dõi sau nạo trứng

Cần theo dõi hàng loạt thể trạng, những triệu chứng nghén, triệu chứng ra máu âm đạo, sự nhỏ lại của nang hoàng tuyến và sự co hồi tử cung .

Sau nạo trứng cần theo dõi tiếp chỉ số Beta-HCG 1 tuần 1 lần cho đến khi chỉ số này trở về bình thường. Sau khi trở về bình thường – trong 2 năm tiếp theo cần theo dõi tiêp chỉ số này để đảm bảo thai trứng đã được loại bỏ hoàn toàn. Tần suất kiểm tra chỉ số Beta-HCG trong giai đoạn này như sau:

  • 3 tháng đầu: 2 tuần xét nghiệm chỉ số Beta-HCG 1 lần.- 6 tháng tiếp theo: Mỗi tháng xét nghiệm chỉ số Beta-HCG 1 lần (nếu các kết quả trước đó đều âm tính).- Trong năm tiếp theo: Cứ 2 tháng định lượng Beta-HCG 1 lần (theo dõi liên tục trong vòng 2 năm)
  • Siêu âm: tìm nhân di căn, theo dõi nang hoàng tuyến.

Chửa trứng toàn phần
Chửa trứng là một căn bệnh sản khoa nguy hại, nhiều nguy cơ biến chứng nên mỗi phụ nữ cần có những hiểu biết nhất định về nó để phòng tránh. Ăn uống đủ chất rất quan trọng trong độ tuổi sinh nở. Bên cạnh đó, những bà mẹ cần thực thi kế hoạch hoá mái ấm gia đình, không sinh quá nhiều con, và sinh gần nhau, không nên sinh con khi đã quá 35 tuổi. Ngoài ra, khi có kế hoạch mang thai, những bà mẹ nên đến thăm khám bác sĩ để kiểm tra rủi ro tiềm ẩn cũng như năng lực hoàn toàn có thể mang chửa trứng để có giải pháp phòng tránh sớm .Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là một trong những bệnh viện không những bảo vệ chất lượng trình độ với đội ngũ y bác sĩ đầu ngành, mạng lưới hệ thống trang thiết bị công nghệ tiên tiến văn minh mà còn điển hình nổi bật với dịch vụ khám, tư vấn và chữa bệnh tổng lực, chuyên nghiệp ; khoảng trống khám chữa bệnh văn minh, lịch sự và trang nhã, bảo đảm an toàn và tiệt trùng tối đa .

Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số hoặc đăng ký lịch trực tuyến TẠI ĐÂY. Tải ứng dụng độc quyền MyVinmec để đặt lịch nhanh hơn, theo dõi lịch tiện lợi hơn!

Rate this post