Kinh Mân Côi – Wikipedia tiếng Việt

Tràng hạt Mân Côi

Kinh Mân Côi là một phương pháp cầu nguyện phổ biến và quan trọng của Giáo hội Công giáo Rôma. Bài kinh này bao gồm một bộ tràng hạt và các câu kinh cầu theo mẫu. Khi thực hành, người Công giáo đọc lên thành tiếng, đọc thầm hay đọc bằng ý nghĩ theo trình tự: một Kinh Lạy Cha (Pater noster), sau đó là mười Kinh Kính Mừng (Ave Maria) và kết thúc bằng một Kinh Sáng Danh (Gloria Patri), mỗi trình tự như thế gọi là một “mầu nhiệm” (suy niệm), được hiểu là một bộ mười kinh. Một “mầu nhiệm” còn được gọi là một “sự” (một “decade”), tương ứng với một sự kiện về cuộc đời Chúa Giêsu và Mẹ Maria theo Tân Ước. Cho tới trước thế kỷ 21, Kinh Mân Côi bao gồm 15 mầu nhiệm, được chia làm ba nhóm: Mầu nhiệm năm Sự vui (Mysteria Gaudiosa), Mầu nhiệm năm Sự thương (Mysteria Dolorosa), Mầu nhiệm năm Sự mừng (Mysteria Gloriosa). Tất cả hầu như không có gì thay đổi cho đến năm 2002, Giáo hoàng Gioan Phaolô II công bố thêm năm mầu nhiệm mới, đó là Mầu nhiệm năm Sự sáng (Mysteria Luminosa), như vậy, Kinh Mân Côi ngày nay có 20 mầu nhiệm.

Xuất phát từ tiếng Latinh: rosarium, nghĩa là khu vườn hoa hồng. Trong tiếng Việt, Kinh Mân Côi còn được gọi bằng các tên như: Văn Côi, Môi Côi, Môi Khôi, Mai Khôi…

Kinh Mân Côi gắn liền với những cách thức tôn kính Mẹ Maria được nhiều Giáo hoàng khuyến khích thực hành, đặc biệt là Giáo hoàng Lêô XIII. Vị giáo hoàng này được mệnh danh là “Giáo hoàng của Kinh Mân Côi” khi ông ban phép lành và làm lời kinh này trở nên phổ biến với tên gọi Rất thánh Mân Côi. Do hiệu quả của Kinh Mân Côi và sự can thiệp của Mẹ Maria qua lời kinh này, mà Giáo hoàng Piô V đã đưa Lịch phụng vụ Công giáo với danh xưng Lễ Đức Mẹ Mân Côi, tổ chức vào ngày 7 tháng 10 hằng năm.

Tràng hạt Mân côi bằng gỗ thế kỷ 16 Tượng Đức Mẹ Mân Côi bởi Franz Tavella, 1905 tại TirolCó những cụ thể khác nhau về lịch sử vẻ vang của Kinh Mân Côi. Theo truyền thống cuội nguồn, Giáo hội tin rằng Kinh Mân Côi được Mẹ Maria trao cho Thánh Đa Minh vào năm 1214 tại nhà thời thánh Prouille, gần Toulouse miền nam nước Pháp. Thực tế, việc cầu nguyện với một tràng hạt đã có nguồn gốc rất rất lâu rồi. Vào những thế kỷ tiên phong của Kitô giáo, những tu sĩ trong vùng sa mạc Ai Cập có thói quen dùng những hạt cây hay những hòn sỏi nhỏ để đếm kinh – kinh này là Kinh Lạy Cha. Tùy mức độ sùng đạo, mỗi buổi sáng, họ quyết định hành động số kinh sẽ đọc trong ngày tương ứng với số lượng hạt này rồi cho vào túi, đọc xong một kinh thì họ vứt đi mỗi hạt. Đến thời Trung Cổ, những tu sĩ có thói quen đọc 150 bài Thánh Vịnh mỗi ngày trong giờ Kinh Phụng vụ. Nhưng có nhiều người không biết đọc và viết tiếng Latinh nên họ không hiểu và đọc 150 kinh Lạy Cha để thay thế sửa chữa. Để đếm những kinh ấy, người ta dùng những hạt gỗ xâu vào nhau nhờ một sợi dây và gọi đây là tràng hạt kinh Lạy Cha. Sau này, người ta dùng thêm Kinh Kính Mừng bên cạnh Kinh Lạy Cha. Thế kỷ thứ 7, là thế kỷ khởi sắc của việc sùng kính Maria, giáo dân khởi đầu thông dụng việc đọc 150 Kinh Kính Mừng thay cho 150 kinh Lạy Cha và gọi những này là ” sách Thánh Vịnh của Đức Mẹ ” .Thế kỷ 13, thánh Đa Minh được thiên chức chống lại sự bành trướng của lạc giáo Albigens. Theo tục truyền, năm 1213, Trinh nữ Maria hiện ra với ông và dạy phải dùng hai phương tiện đi lại để thắng lợi là giảng dạy và cầu nguyện bằng kinh Mân Côi. Từ năm 1410 đến 1439, một thầy tu tên là Dominique ở Köln, nước Đức đề xuất đọc theo một hình thức mới, chỉ có 50 kinh Kính Mừng, trước mỗi kinh có phần suy niệm một đoạn Phúc Âm. Ý tưởng này phổ cập và tăng trưởng can đảm và mạnh mẽ. Từ thế kỷ 16 đến tận đầu thế kỷ 20, cấu trúc của Kinh Mân Côi cơ bản vẫn không đổi khác, gồm 15 ” mầu nhiệm ” chia làm ba nhóm. Trong thế kỷ 20, người ta còn phổ cập kinh cầu Fatima vào đoạn sau của mỗi ” mầu nhiệm “. Đến năm 2002, Giáo hoàng Gioan Phaolô II mới thêm vào Mầu nhiệm năm Sự sáng – đây là sự đổi khác lớn của kinh này sau năm thế kỷ .
Hình minh họa cho một bộ tràng hạt Mân CôiCấu trúc của Kinh Mân Côi thường theo trình tự sau : [ 1 ]

Các mầu nhiệm[sửa|sửa mã nguồn]

Năm sự Vui[sửa|sửa mã nguồn]

Năm sự Sáng[sửa|sửa mã nguồn]

Năm sự Thương[sửa|sửa mã nguồn]

  1. Thứ nhất thì ngắm: Ðức Chúa Giêsu lo buồn đổ mồ hôi máu. Ta hãy xin cho được ăn năn tội nên.
  2. Thứ hai thì ngắm: Ðức Chúa Giêsu chịu đánh đòn. Ta hãy xin cho được hãm mình chịu khó bằng lòng.
  3. Thứ ba thì ngắm: Ðức Chúa Giêsu chịu đội mão gai. Ta hãy xin cho được chịu mọi sự sỉ nhục bằng lòng.
  4. Thứ bốn thì ngắm: Ðức Chúa Giêsu vác cây Thánh giá. Ta hãy xin được vác Thánh giá theo chân Chúa.
  5. Thứ năm thì ngắm: Ðức Chúa Giêsu chịu chết trên cây thánh giá. Ta hãy xin đóng đinh tính xác thịt vào thánh giá Chúa.

Năm sự Mừng[sửa|sửa mã nguồn]

Tính theo hằng ngày :

Chúa Nhật: Năm Sự Mừng
Thứ Hai: Năm Sự Vui
Thứ Ba: Năm Sự Thương
Thứ Tư: Năm Sự Mừng
Thứ Năm: Năm Sự Sáng
Thứ Sáu: Năm Sự Thương
Thứ Bảy: Năm Sự Vui

Tính theo tuần cho riêng 1 ngày :

Tuần thứ nhất: Năm Sự Vui
Tuần thứ hai: Năm Sự Sáng
Tuần thứ ba: Năm Sự Thương
Tuần thứ bốn: Năm Sự Mừng

Ngoại trừ :

  • Những ngày Chúa Nhật mùa Giáng Sinh thì thay mầu nhiệm Mừng thành mầu nhiệm Vui.
  • Những ngày Chúa Nhật mùa Chay thì thay mầu nhiệm Mừng thành mầu nhiệm Thương.
  • Thứ Bảy trùng hợp với Thánh Lễ thay Chúa Nhật thì thay mầu nhiệm Vui thành mầu nhiệm Mừng.
  1. ^ Encyclopedia of Catholic Devotions and Practices Ann Ball, 2003 ISBN 0-8797 3-910 – X pages 485 – 487
Rate this post