Bàn về Nhân – Lễ – Nghĩa – Trí – Tín: xưa và nay

Bàn về Nhân – Lễ – Nghĩa – Trí – Tín: xưa và nay

13/11/2017

Nước Ta đã có hơn nghìn năm lịch sử dân tộc phong kiến, và nho giáo luôn là tư tưởng chủ yếu trong đời sống chính trị, văn hóa truyền thống của dân tộc bản địa. Cho đến thời điểm ngày hôm nay cũng không hề phủ nhận những giá trị văn hóa truyền thống to lớn mà tư tưởng nho giáo để lại trong đời sống xã hội. Nói đến tư tưởng nho giáo người ta không hề không nhắc đến năm chữ Nhân, Lễ Nghĩa, Trí, Tín. Dù đã trải qua nhiều quá trình lịch sử dân tộc, cho đến giờ đây những giá trị nhân văn của tư tưởng đó bộc lộ qua năm chữ trên vẫn không mất đi giá trị. Song ở mỗi thời mỗi khác và ngày hôm nay Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín cũng gắn liền với sự chuyển biến của xã hội hiện tại, ở một góc nhìn phương diện nào đó đã biểu lộ với những tư tưởng và cách tâm lý không giống xưa, cũng như tâm quan trọng của mỗi chữ bộc lộ trong thứ tự sắp xếp, điều đó cần được bàn thêm .

 

 

Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín hay Nhân, Nghĩa, Trí, Tín, Lễ ?
Thời nào cũng vậy, chữ nhân luôn đặt lên số 1, là quan trọng hơn cả, nó đã là bao quát, là đạo làm người. Dù thời xưa hay thời nay chữ nhân đó vẫn biểu lộ trong cách sống, lối sống của mỗi con người. Cách đôi nhân xử thế, tấm lòng của người giữa đời thường, cũng như vai trò nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi cá thể trong xã hội. Chữ nhân trong mõi người không chỉ là một tấm lòng, tấm lòng yêu thương con người, quê nhà quốc gia mà còn biết gắn cái riêng của mình vào cái chung của xã hội hiện tại, với sự ràng buộc giữa người với người, bằng những mối tương quan kết nối. Người xưa cho rằng chữ nhân 仁 bộc lộ qua nhiều luân thường đạo lý : Vua – tôi, cha – con, vợ – chồng, anh – em bạn hữu … Nam thì Tam cang ngũ thường ( Tam cang : ba mối quan hệ giữa vua – tôi, cha – con, vợ – chồng. Ngũ thường : Chính là năm yếu tố để trở thành nhân cách một con người : Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín ). Điều đó bộc lộ rõ nét trong tư tưởng nho giáo với mối quan hệ giữa vua – tôi thế nào, cha – con thế nào … Cũng như chữ trung luôn đặt trên chữ hiếu. Quân bảo thần tử, thần bất tử bất trung ( Vua bảo bề tôi chết, bề tôi không chết là không trung ). Đó biểu lộ cái tâm lý của chính sách phong kiến quân chủ tập quyền. Nhưng tâm lý đó ngày này đã không còn tương thích, một cá thể trong đời sống quốc gia thì cần phải tâm lý gì trước vận mệnh chung của dân tộc bản địa, tất yếu là phải vì quyền lợi chung, cái lợi của nhân dân, của dân tộc bản địa chứ không phải vì một quyền lợi riêng của cá thể nào. Còn theo ngôn từ khoa học thì nhân ( hạt nhân ) nghĩa là cái TT, cái quan trong, cơ bản nhất của mỗi vật chất. Con người cũng vậy, nhân không riêng gì biểu lộ cái riêng của mỗi cá thể mà còn là một tấm lòng bát ngát của con người khi gắn cái riêng đó với cái chung trong đời sống xã hội đời thường. Nữ thì Tam tòng tứ đức ( Tam tòng : Sống theo cha, có chồng theo chông, chồng mất thì theo con. Tứ đức : Công, Dung, Ngôn, Hạnh, Công : là sự giỏi gian, đảm đang trong việc làm, Dung : nhan sắc người phụ nữ, Ngôn : lời ăn lời nói, cách ứng xử lễ phép, Hanh : cái trinh tiết, tiết hạnh của người phụ nữ – ý nói cần giữ gìn ). Có nhất thiết phải ở vậy theo con khi mà người chồng chăng may mất sớm không ? Chẳng lẽ không cho người phụ nữ cái quyền được sống, được có niềm hạnh phúc mới khi còn tuổi xuân sao ? Đối với một số ít dân tộc bản địa như Champa, hay đời nhà Tần bên Trung Quốc thời xưa còn có tục khi người chống mất người vợ phải chết theo, nhất là so với những bậc vua chúa. Làm vậy chẳng phải là quá khắc khe, ích kỷ và tàn khốc so với người phụ nữ sao ? – Điều đó ngày này đã trọn vẹn không còn tương thích. Công ở thời xưa và thời nay đã không còn giống nhau trên phương quan điểm, nhất là so với người phụ nữ ngày này ngày càng có nhiều quyền bình đẳng hơn. Có một thực tiễn là ở chính sách phong kiến rất lâu rồi ý niệm xem nhẹ vai trò người phụ nữ, cũng như tư tưởng trọng nam khinh nữ đã ăn sâu vào tâm lý của mọi người, như ngày này hoàn toàn có thể nói điều đó đã dân biến hóa. Mọi người cần phải đổi khác lại cách tâm lý và nhìn nhận đúng về vai trò người phụ nữ. Người xưa cho rằng, người phụ nữ đảm đang thì chỉ cần gói gọn trong việc nâng khăn sửa túi cho chồng, chăm sóc con cháu, mái ấm gia đình chứ không cần có một việc làm riêng tư. Nhưng thời nay thì đã khác, người phụ nữ cũng có một việc làm riêng tư như bao người đàn ông, một đời sống tự lập chứ đâu cần phải theo ai ! Điều đó chứng tỏ qua xã hội thời nay có nhiều người phụ nữ thành đạt, họ không chỉ chăm sóc tốt chồng con, mái ấm gia đình mà thành công xuất sắc trong việc làm trình độ, có một địa vi nhất định trong xã hội mà nhiều người đàn ông cũng phải ao ước, ngưỡng mộ theo chứ chưa nói gì đến những người phụ nữ là chỉ huy, nguyên thủ của một vương quốc. Điều đó cũng đã đủ nói lên vai trò to lớn của người phụ nữ thời nay. Dung là nhan sắc, ở mọi thời đại đó vẫn là một lợi thế của họ, thế mạnh trời cho này của người phụ nữ nếu họ biết ăn nói êm ả dịu dàng lễ phép, kính trên nhường dưới, tiếp xúc nhã nhặn với mọi người xung quanh đúng như trong chữ ngôn nữa thì đó là điều tuyệt vời. Ngày nay ý niệm về khô hanh – trinh tiết của người phụ nữ đã không còn khắc khe như xưa, nhưng đó cũng là điều mà người phụ nũ luôn trân trọng, giữ gìn – nhất là so với những người phụ nữ Á đông với tư tưởng văn hóa truyền thống phương đông, bao đời đã tạo nên một nét riêng so với người phụ nữ phương tây và được mọi người trong xã hội nhìn nhận cao. Tất cả những đều trên khẳng định chắc chắn một điều rằng : Đối với mỗi người thì chữ nhân không thế thiếu được .
Với người xưa họ rất xem trọng lễ vì thế sau chữ nhân là lễ 禮. Xem qua cách hành xử, ứng xử cùng với những nghi thức, lễ nghi đúng thủ tục, hợp lòng người trong đời sống đương thời mà qua đó xã hội nhìn nhận đến sự hiểu biết của một cá thể, phải đạo với trời đất, hợp đạo với đời. Chữ lễ ở đây không chỉ là lễ phép, đức độ kính trên nhường dưới trong đạo vua – tôi, cha – con, vợ – chồng, anh – em mà còn bộc lộ qua những hình thức lễ nghi theo truyền thống cuội nguồn đương thời, cũng chính do đó mà có nhiều lễ nghi rờm rà, tốn kém, nhưng là điều không hề thiếu khi hành xử một việc gì đó cho là quan trọng, để rồi nó trở thành một nét văn hóa truyền thống của dân tộc bản địa. Họ cho răng có lễ rồi mới có nghĩa, và ngày này lễ cũng góp phần một vai trò quan trọng trong văn hóa truyền thống giao tiếp ứng xử của mọi người trong xã hội. Nhưng ngày có phải lễ quan trọng hơn nghĩa không, điều đó cần phải bàn. Thực tế cho thấy, nếu nhìn nhận một con người, một mái ấm gia đình mà chỉ xét qua cánh hành lễ nghi thôi không xét về nghĩa thì quả là thiếu sót. Bỡi có nhiều người trong xã hội hàng ngày hành sự có thừa lễ nghi nhưng nghĩa thì lại thiếu, cũng chính vì thiếu nghĩa ở đời mà sinh ra nhiều lễ nghi không tương thích lại tiêu tốn lãng phí thời hạn tiền của, nên không hợp với lòng người và làm sai lễ, không đúng với giá trị thuần túy của lễ. Nghĩa 義 ở đây bộc lộ vai trò trách, nghĩa vụ và trách nhiệm của con người với người, giữa người với đời, với xã hội hiện tại. Sống ở đời cần có một nghĩa vụ và trách nhiệm với đời, cũng chính vì thế mà cần có nghĩa, sống có nghĩa vụ và trách nhiệm với quê nhà quốc gia, với mái ấm gia đình dòng họ, ồng bà cha mẹ, vợ con, đồng đội bè bạn cũng là nghĩa. Biết trả ơn khi mình đã nhận được những điều suôn sẻ trong đời sống – đó cũng là nghĩa. Tại sao có nhiều người luốn biết chăm sóc trợ giúp mọi người trong xã hội, làm từ thiện tri ân với đời … cũng vì họ sống có nghĩa với đời, với đời sống hiện tại, họ biết cho khi đã nhận. Nghĩa cũng là sống cho mọi người chứ không chỉ sống cho riêng cá thể mình. Có những việc hoàn toàn có thể họ chưa biết hành xử sao cho đúng với lễ nghi, nhưng giá trị thực trong con người thực của họ qua những việc làm nghĩa thì sẽ được mọi người người trong xã hội nhận ra và tôn trọng. Còn hơn là những lễ nghi mang đặc thù hình thức mà không có nghĩa. Vì vậy phải chăng ngày ngay chữ nghĩa cần đặt trước chữ lễ .
Nếu muốn làm được việc nghĩa thì phải có trí, phải có một sự hiểu biết nhất định ở xã hội. Có nhân, có nghĩa mà không có trí thì chẳng khác nào một người lính ra trận chỉ có áo giáp mà không có gươm, đao, chỉ bảo vệ được mình mà không bảo vê được người khác. Sống ở đời nếu chí sống cho riêng ta thì đơn thuần quá, mà muốn giúp sức được người khác tất mình phải có tài, có hiểu biết. Trí 智là một sự hiểu biết, người không trí, không hiểu biết thì quả là một thiệt thòi lớn, hoàn toàn có thể nói người không trí không làm được gì cả. Nếu như thời xưa nhìn nhận chữ trí của một con người qua sự hiểu biết về đạo quân tử, triết lý khổng giáo, lão giáo hay phật giáo thì ngày này ngoài sự hiểu biết về nghành văn hóa truyền thống xã hội, triết học thì cần có một sự hiểu biết về khoa học tự nhiên, bước sang thế kỷ XXI, với đời sống văn minh, thông tin chóng mặt thì điều đó là thiết yếu. Hiểu biết nhiều hoàn toàn có thể làm được nhiều việc có ích với đời nếu người đó có nhân, có nghĩa trong tâm .

Có trí 智mà không có tín 信 thì chưa phải là điều tốt, ai đó có tài nhưng lại không có được uy tín, lòng tin đối với người khác thì cũng chẳng được ai tôn trọng. Chữ tín  信 trong cuộc sống hàng ngày rất quan trọng, dù thời xưa hay thời nay thì sống ở đời mọi người cũng cần có một uy tín nhất định trong quan hệ với mọi người xung quanh. Thời xưa cái uy tín với bạn bè luôn được đánh giá cao, uy tín đó sẽ gây dựng được lòng tinh, mọi người tin tưởng sẽ dễ dàng được mọi người giúp đỡ trong cuốc sống. Nói thì phải làm, sống trung thực với mọi người, với bản thân. Ngày nay cũng vậy cho dù anh có tài nhưng không có được uy tín thì cũng chẳng ai theo, muốn được người khác giúp đỡ thì bản thân mình phải giữ được lòng tin trước mọi người, chưa nói đến trong quan hệ làm ăn ở xã hội, chữ tín 信cái uy tín trong công việc luôn đặt lên hàng đầu, quyết định đến sự thành công.

Có được nhân, nghĩa, trí, tín tất lễ cũng phải có, bốn chữ trên gân như gồm có cả một nhân cách con người thì lý gì lễ không có ? Chí ít gì cũng hiểu biết thế nào là lễ và vì sao gọi là lễ ở đời. Vì vậy nếu nói : Người xưa thì NHÂN, LÊ, NGHĨA, TRÍ, TÍN Còn người nay thì NHÂN, NGHĨA, TRÍ, TÍN, LỄ thì cũng không gì là quá. Nhưng mặc dầu là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín hay nhân, nghĩa, trí, tín, lễ đi chăng nữa thì sự kết nối cũng như mối đối sánh tương quan hỗ trợ giữa năm chữ trên cũng không khi nào đổi khác được. Năm chữ trên không hề thiếu đi một .

Tường Cát

Nguồn : http://khanhnguyenduy.blogspot.com/2012/07/ban-ve-nhan-le-nghia-tri-tin-xua-va-nay.html

Rate this post