Bảo vệ dữ liệu cá nhân – Wikipedia tiếng Việt

Bảo vệ dữ liệu cá nhân khởi đầu dùng để chỉ việc bảo vệ dữ liệu có liên quan đến cá nhân trước sự lạm dụng. Trong vùng nói tiếng Anh người ta gọi đó là privacy hay data privacy. Trong vùng theo luật lệ châu Âu khái niệm data protection được dùng trong luật lệ.

Ngày nay mục tiêu của việc bảo vệ tài liệu được xem là để bảo vệ từng cá thể không bị thiệt thòi trong quyền tự quyết định hành động về thông tin của chính mình trải qua việc sử dụng tài liệu tương quan đến cá thể của họ. Bảo vệ dữ liệu cá thể ủng hộ sáng tạo độc đáo là về nguyên tắc mỗi người đều hoàn toàn có thể tự quyết định hành động là người nào, khi nào và tài liệu cá thể nào của mình được phép cho người khác xem. Bảo vệ dữ liệu cá thể muốn ngăn ngừa cái gọi là ” con người bằng kính ” .

Tầm quan trọng của việc bảo vệ dữ liệu cá nhân đã tăng liên tục từ lúc phát triển kỹ thuật số vì thu thập, lưu trữ, giao chuyển và phân tích dữ liệu ngày càng đơn giản đi. Các phát triển kỹ thuật như Internet, thư điện tử, điện thoại di động, giám sát bằng video và các phương pháp thanh toán điện tử tạo nên những khả năng mới để thu thập dữ liệu. Cả cơ quan quốc gia lẫn doanh nghiệp tư nhân đều quan tâm đến những thông tin có liên quan đến cá nhân. Cơ quan an ninh quốc gia muốn cải tiến việc đấu tranh chống tội phạm thí dụ như thông qua điều tra đặc tính cá nhân (tiếng Anh: racial profiling) và giám sát viễn thông, cơ quan tài chính quan tâm đến giao dịch ngân hàng để khám phá vi phạm về thuế. Doanh nghiệp hy vọng tăng năng suất từ việc giám sát nhân viên và hy vọng việc định hình khách hàng sẽ giúp đỡ tiếp thị. Đối diện với sự phát triển này là sự thời ơ của phần lớn dân chúng mà trong mắt của họ việc bảo vệ dữ liệu cá nhân không có hay chỉ có tầm quan trọng trên thực tế rất ít.

Quy định quốc tế[sửa|sửa mã nguồn]

Từ năm 1980, cùng với Guidelines on the Protection of Privacy and Transborder Data Flows of Personal Data của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đã tồn tại những quy định có giá trị quốc tế với mục đích làm hài hòa sâu rộng các quy định về bảo vệ dữ liệu của các nước thành viên, khuyến khích trao đổi thông tin tự do, tránh cản trở thương mại vô lý và để tránh chia cách, đặc biệt là giữa các phát triển ở châu Âu và ở Mỹ.

Năm 1981, với Hiệp ước Bảo vệ Dữ liệu Cá nhân châu Âu, Hội đồng châu Âu đã trải qua một trong những hiệp định quốc tế tiên phong về việc bảo vệ tài liệu cá thể. Hiệp ước Bảo vệ Dữ liệu Cá nhân châu Âu có giá trị cho đến ngày này nhưng chỉ có tính khuyên bảo. trái lại những thông tư bảo vệ tài liệu cá thể của Liên minh châu Âu là bắt buộc so với những vương quốc thành viên và phải được chuyển thành luật lệ vương quốc .

Liên minh châu Âu[sửa|sửa mã nguồn]

Với Chỉ thị Bảo vệ Dữ liệu Cá nhân châu Âu, Quốc hội châu Âu và Hội đồng châu Âu đã ghi rõ các tiêu chuẩn tối thiểu cho việc bảo vệ dữ liệu cá nhân cho các quốc gia thành viên. Tuy nhiên chỉ thị không có hiệu lực trong lãnh vực cộng tác tư pháp và cảnh sát. Việc chuyển giao dữ liệu có liên quan đến cá nhân sang quốc gia không phải là thành viên của Liên minh châu Âu cũng được điều chỉnh: theo chương 25 thì việc chuyển giao chỉ được phép khi quốc gia đó bảo đảm một “mức độ bảo vệ thích hợp”. Quyết định quốc gia nào bảo đảm được mức độ bảo vệ này là do Ủy ban đưa ra, được cố vấn bởi nhóm gọi là Nhóm bảo vệ cá nhân trong việc xử lý dữ liệu có liên quan đến cá nhân. Hiện nay (thời điểm 9/2004) theo quyết định của Ủy ban, mức độ bảo vệ thích hợp được bảo đảm từ những quốc gia sau đây: Thụy Sĩ, Canada, Argentina, Guernsey, đảo Man (Isle of Man) cũng như trong việc ứng dụng các nguyên tắc của “Bến an toàn” (safe harbor) do Bộ Thương mại Mỹ đề ra và trong việc chuyển giao dữ liệu của hành khách hàng không đến Cơ quan Bảo vệ Biên giới và Hải quan Mỹ (CBP).

Đặc biệt là quyết định hành động về việc được cho phép chuyển giao tài liệu của hành khách hàng không đến Cơ quan Hải quan Mỹ đã được tranh cãi nhiều. Quốc hội châu Âu đã khởi kiện quyết định hành động này của Ủy ban và Hội đồng châu Âu vì theo quan điểm của Quốc hội châu Âu là đã không được tham gia đúng mức và thêm vào đó là từ phía Mỹ cũng không bảo vệ được một mức độ bảo vệ tài liệu thích hợp .Chỉ thị này được bổ trợ bởi Chỉ thị 2002 / 58 / EG về việc giải quyết và xử lý tài liệu có tương quan đến cá thể và việc bảo vệ riêng tư cá thể trong thông tin điện tử. Sau khi thời hạn thực thi thông tư kết thúc vào ngày 31 tháng 12 năm 2003, 9 vương quốc thành viên đã bị khởi kiện và sau khi chỉ có Thụy Điển do đó đã triển khai trọn vẹn thông tư Bỉ, Đức, Hy Lạp, Pháp, Luxembourg, Hà Lan, Bồ Đào Nha và Phần Lan đang bị rình rập đe dọa bởi một vụ kiện trước Tòa án châu Âu .

Trên bình diện châu Âu việc ghi nhớ dữ liệu bắt buộc của viễn thông và Internet được thông qua từ Quốc hội châu Âu với các phiếu của những người theo Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo và Dân chủ Xã hội. Một thời hạn tối thiểu là 6 tháng (Internet) và 1 năm (điện thoại) được đề nghị từ phía của Hội đồng châu Âu và Ủy ban châu Âu, thế nhưng các dữ liệu hiện nay được ghi nhớ cho đến 2 năm. Những người có trách nhiệm bảo vệ dữ liệu cá nhân quốc gia chỉ trích các quy định về việc ghi nhớ dữ liệu trong viễn thông và Internet này.

Cơ sở lao lý cho việc bảo vệ tài liệu ở Áo là Luật Bảo vệ Dữ liệu 2000. Ủy ban Bảo vệ Dữ liệu Áo trấn áp việc thi hành đúng theo pháp lý .
Theo phán quyết của Tòa án Hiến pháp Liên bang bảo vệ tài liệu là một quyền cơ bản ( quyền tự quyết định hành động về thông tin ). Theo đó người có liên can về cơ bản có quyền tự quyết định hành động là cho những ai biết những thông tin cá thể nào của mình .Trên bình diện liên bang Luật Bảo vệ Dữ liệu Liên bang lao lý việc bảo vệ tài liệu cho những cơ quan liên bang và lãnh vực cá thể ( có nghĩa là cho tổng thể những doanh nghiệp kinh tế tài chính ). Bên cạnh đó những Luật Bảo vệ Dữ liệu Tiểu bang của những tiểu bang pháp luật việc bảo vệ tài liệu trong những cơ quan tiểu bang và địa phương .

Bên cạnh các luật bảo vệ dữ liệu chung còn có nhiều quy định bảo vệ dữ liệu cho từng lãnh vực. Thí dụ như các quy định đặc biệt về bảo vệ dữ liệu của Bộ luật Xã hội có giá trị cho các cơ quan về phúc lợi xã hội. Các quy định bảo vệ dữ liệu riêng biệt cho từng lãnh vực có hiệu lực trước các quy định chung của Luật bảo vệ dữ liệu. Các cơ quan của liên bang cũng như các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bưu điện và viễn thông có tính cách kinh doanh chịu sự giám sát của Ủy viên Liên bang về Bảo vệ Dữ liệu (Bundesbeauftragte für den Datenschutz). Doanh nghiệp tư nhân (ngoại trừ viễn thông và bưu điện) chịu sự giám sát của các cơ quan giám sát về bảo vệ dữ liệu cho khu vực phi công cộng thuộc dưới quyền của Ủy viên Tiểu bang về Bảo vệ Dữ liệu (Landesdatenschutzbeauftragte) hay cơ quan tiểu bang (thí dụ như Bộ Nội vụ). Ủy ban Liên minh châu Âu đã khởi kiện nước Cộng hòa Liên bang Đức về việc vi phạm hiệp định vì một số ủy viên về bảo vệ dữ liệu tiểu bang và tất cả các cơ quan của tiểu bang không hoạt động “hoàn toàn độc lập” mà chịu sự chỉ thị của chính phủ tiểu bang.

Tương tự như ở Đức, Luật Bảo vệ Dữ liệu Cá nhân của liên bang quy định về việc bảo vệ dữ liệu cho các cơ quan liên bang và cho khu vực tư nhân, Luật Bảo vệ Dữ liệu Tiểu bang được áp dụng cho các cơ quan tiểu bang. Ủy viên Liên bang về Bảo vệ Dữ liệu (Eidgenössische Datenschutzbeauftragte) giám sát việc thi hành Luật Bảo vệ Dữ liệu. Giám sát việc thi hành các luật bảo vệ dữ liệu tiểu bang thuộc về thẩm quyền của tiểu bang, không trực thuộc dưới quyền của ủy viên về bảo vệ dữ liệu liên bang.

Trong Hội nghị Bảo vệ Dữ liệu Quốc tế 2005 những ủy viên về bảo vệ tài liệu đã nhắc nhở đến những nguyên tắc bảo vệ tài liệu trong ” Tuyên bố Montreux ” :

  • Nguyên tắc hợp pháp trong lúc thu thập và xử lý dữ liệu.
  • Nguyên tắc đúng đắn.
  • Nguyên tắc phù hợp với mục đích.
  • Nguyên tắc cân xứng.
  • Nguyên tắc minh bạch.
  • Nguyên tắc được cùng quyết định cho từng cá nhân và bảo đảm quyền truy cập cho người có liên quan.
  • Nguyên tắc không phân biệt đối xử.
  • Nguyên tắc an toàn.
  • Nguyên tắc có trách niệm trước pháp lý.
  • Nguyên tắc giám sát độc lập và hình phạt theo pháp luật.
  • Nguyên tắc mức bảo vệ tương ứng trong vận chuyển dữ liệu xuyên biên giới.

Những người phê phán thường hay nêu lý lẽ là việc bảo vệ tài liệu trên mức cần thiết hay bảo vệ tài liệu không đúng chỗ hoàn toàn có thể gây thiệt hại. Thí dụ hay được nêu ra là việc trao đổi tài liệu được cho là không rất đầy đủ giữa những người điều trị trong y học. Một phê phán khác thường hay được ngành công an đưa ra là việc bảo vệ tài liệu gây khó khăn vất vả cho việc chống tội phạm hình sự .

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Rate this post