Rừng – Wikipedia tiếng Việt

Về cấu trúc đồ thị, xem bài Rừng (lý thuyết đồ thị)

” Jungle ” đổi hướng tới đây. Đối với phim, xem Jungle ( phim 2017 ). Đối với nhóm nhạc có bài hát mang tên này, xem Bvndit Một cảnh sắc rừng ở Thụy Điển

Một cánh rừng thông

Rừng là quần xã sinh vật trong đó cây rừng là thành phần chủ yếu. Nói cách khác, rừng là tập hợp của nhiều cây. Quần xã sinh vật phải có diện tích đủ lớn. Giữa quần xã sinh vật và môi trường, các thành phần trong quần xã sinh vật phải có mối quan hệ mật thiết để đảm bảo khác biệt giữa hoàn cảnh rừng và các hoàn cảnh khác.

Rừng cọ tại một loại rừng mà cây cọ chiếm lợi thế trong số những loài cây ở đó Một quan cảnh rừng ôn đới với con lạch chảy vắt qua nền rừng thường xanh

Ngay từ thuở sơ khai, con người đã có những khái niệm cơ bản nhất về rừng. Rừng là nơi cung cấp những thứ phục vụ cuộc sống của họ. Lịch sử càng phát triển, những khái niệm về rừng được tích lũy, hoàn thiện thành những học thuyết về rừng. Năm 1817, H.Cotta (người Đức) đã xuất bản tác phẩm Những chỉ dẫn về lâm học, đã trình bày tổng hợp những khái niệm về rừng. Ông có công xây dựng học thuyết về rừng có ảnh hưởng đến nước Đức và châu Âu trong thế kỷ 19. Năm 1912, G.F.Morodop công bố tác phẩm Học thuyết về rừng. Sự phát triển hoàn thiện của học thuyết này về rừng gắn liền với những thành tựu về sinh thái học.

Năm 1930, Morozov đưa ra khái niệm : Rừng là một tổng thể và toàn diện cây gỗ, có mối liên hệ lẫn nhau, nó chiếm một khoanh vùng phạm vi khoảng trống nhất định ở mặt đất và trong khí quyển. Rừng chiếm hầu hết bề mặt Trái Đất và là một bộ phận của cảnh sắc địa lý. Năm 1952, M.E. Tcachenco phát biểu : Rừng là một bộ phận của cảnh sắc địa lý, trong đó gồm có một tổng thể và toàn diện những cây gỗ, cây bụi, cây cối, động vật hoang dã và vi sinh vật. Trong quy trình tăng trưởng của mình chúng có mối quan hệ sinh học và ảnh hưởng tác động lẫn nhau và với thực trạng bên ngoài. Năm 1974, I.S. Mê-lê-khôp cho rằng : Rừng là sự hình thành phức tạp của tự nhiên, là thành phần cơ bản của sinh quyển địa cầu .
Rừng ở Bắc Mỹ

  • Nếu như tất cả thực vật trên Trái Đất đã tạo ra 53 tỷ tấn sinh khối (ở trạng thái khô tuyệt đối là 64%) thì rừng chiếm 37 tỷ tấn (70%). Và các cây rừng sẽ thải ra 52,5 tỷ tấn (hay 44%) oxy để phục vụ cho hô hấp của con người, động vật và sâu bọ trên Trái Đất trong khoảng 2 năm (S.V. Belov 1976).
  • Rừng là thảm thực vật của những cây thân gỗ trên bề mặt Trái Đất, giữ vai trò to lớn đối với con người như: cung cấp nguồn gỗ, củi, điều hòa khí hậu, tạo ra oxy, điều hòa nước, nơi cư trú động thực vật và tàng trữ các nguồn gen quý hiếm.
  • Một hecta rừng hàng năm tạo nên sinh khối khoảng 300 – 500 kg, 16 tấn oxy (rừng thông 30 tấn, rừng trồng 3 – 10 tấn).
  • Mỗi người một năm cần 4.000kg O2 tương ứng với lượng oxy do 1.000 – 3.000 m² cây xanh tạo ra trong một năm.
  • Nhiệt độ không khí rừng thường thấp hơn nhiệt độ đất trống khoảng 3 – 5 °C.
  • Rừng bảo vệ và ngăn chặn gió bão, cát.
  • Lượng đất xói mòn của vùng có rừng chỉ bằng 10% lượng đất xói mòn của vùng không có rừng.
  • Rừng là nguồn cung cấp gen vô tận cho con người, là nơi cư trú của các loài động thực vật quý hiếm.
  • Vì vậy tỷ lệ đất có rừng che phủ của một quốc gia là một chỉ tiêu an ninh môi trường quan trọng (diện tích đất có rừng đảm bảo an toàn môi trường của một quốc gia tối ưu là ≥ 45% tổng diện tích).

Rừng sương mù cận nhiệt đới Phia Bắc, Nguyên Bình, Cao Bằng, Nước Ta

  • Rừng là một thể tổng hợp phức tạp có mối quan hệ qua lại giữa các cá thể trong quần thể, giữa các quần thể trong quần xã và có sự thống nhất giữa chúng với hoàn cảnh trong tổng hợp đó.
  • Rừng luôn luôn có sự cân bằng động, có tính ổn định, tự điều hòa và tự phục hồi để chống lại những biến đổi của hoàn cảnh và những biến đổi về số lượng sinh vật, những khả năng này được hình thành do kết quả của sự tiến hóa lâu dài và kết quả của sự chọn lọc tự nhiên của tất cả các thành phần rừng.
  • Rừng có khả năng tự phục hồi và trao đổi cao.
  • Rừng có sự cân bằng đặc biệt về sự trao đổi năng lượng và vật chất, luôn luôn tồn tại quá trình tuần hoàn sinh vật, trao đổi vật chất năng lượng, đồng thời nó thải ra khỏi hệ sinh thái các chất và bổ sung thêm vào đó một số chất từ các hệ sinh thái khác.
  • Sự vận động của các quá trình nằm trong các tác động tương hỗ phức tạp dẫn tới sự ổn định bền vững của hệ sinh thái rừng.
  • Rừng có phân bố địa lý,khắp trên thế giới

Cấu trúc rừng[sửa|sửa mã nguồn]

Cấu trúc rừng là quy luật sắp xếp tổng hợp của những thành phần cấu trúc nên quần thể thực vật rừng theo khoảng trống và thời hạn .

Cấu trúc tổ thành[sửa|sửa mã nguồn]

Rừng bạch đàn-Rừng đơn ưu cây bạch đànTổ thành là tác nhân diễn đạt số loài tham gia và số thành viên của từng loài trong thành phần cây gỗ của rừng. Hiểu một cách khác, tổ thành cho biết sự tổng hợp và mức độ tham gia của những loài cây khác nhau trên cùng đơn vị chức năng thể tích .

Trong một khu rừng nếu một loài cây nào đó chiếm trên 95% thì rừng đó được coi là rừng thuần loài, còn rừng có từ 2 loài cây trở lên với tỷ lệ sấp xỉ nhau thì là rừng hỗn loài.

Tổ thành của những khu rừng nhiệt đới gió mùa thường nhiều mẫu mã về những loài hơn là tổ thành những loài cây của rừng ôn đới .

Cấu trúc tầng thứ[sửa|sửa mã nguồn]

Một khu rừng ở California

Sự phân bổ theo khoảng trống của tầng cây gỗ theo chiều thẳng đứng, nhờ vào vào đặc tính sinh thái học, nhu yếu ánh sáng của những loài tham gia tổ thành. Cấu trúc tầng thứ của những hệ sinh thái rừng nhiệt đới gió mùa thước nhiều tầng thứ hơn những hệ sinh thái rừng ôn đới .Một số cách phân loại tầng tán :

  • Tầng vượt tán: Các loài cây vươn cao trội hẳn lên, không có tính liên tục.
  • Tầng tán chính (tầng ưu thế sinh thái): Cấu tạo nên tầng rừng chính,có tính liên tục.
  • Tầng dưới tán: Gồm những cây tái sinh và những cây gỗ ưa bóng.
  • Tầng thảm tươi: Chủ yếu là các loài thảm tươi.
  • Thực vật ngoại tầng: Chủ yếu là các loài thân leo.

Cấu trúc tuổi[sửa|sửa mã nguồn]

Cấu trúc về mặt thời hạn, trạng thái tuổi tác của những loài cây tham gia hệ sinh thái rừng, sự phân bổ này có mối tương quan ngặt nghèo với cấu trúc về mặt khoảng trống .Trong điều tra và nghiên cứu và kinh doanh thương mại rừng người ta thường phân tuổi lâm phần thành những cấp tuổi. Thường thì mỗi cấp tuổi có thời hạn là 5 năm, nhiều khi là những mức 10, 15, hoặc 20 năm tùy theo đổi tượng và mục tiêu .

Cấu trúc tỷ lệ[sửa|sửa mã nguồn]

Cấu trúc tỷ lệ phản ánh số cây trên một đơn vị chức năng diện tích quy hoạnh. Phản ảnh mức độ ảnh hưởng tác động giữa những thành viên trong lâm phần. Mật độ tác động ảnh hưởng đến tiểu thực trạng rừng, năng lực sản xuất của rừng. Theo thời hạn, cấp tuổi của rừng thì tỷ lệ luôn biến hóa. Đây chính là cơ sở của việc vận dụng những giải pháp kỹ thuật lâm sinh trong kinh doanh thương mại rừng .

Một số chỉ tiêu cấu trúc khác[sửa|sửa mã nguồn]

Độ tàn che là mức độ bao trùm của tán cây

  • Độ che phủ: Là tỷ lệ diện tích rừng trên một đơn vị diện tích hay lãnh thổ. Ví dụ độ che phủ của rừng ở Việt Nam năm 2005 là 35,5%.
  • Độ tàn che: Là mức độ che phủ của tán cây rừng. Người ta thường phân chia theo các mức từ: 0,1; 0,2;…0.9;1.
  • Mức độ khép tán: Mức độ này thể hiện sự giao tán giãu các cá thể. Cũng là chỉ tiêu để xác định giai đoạn rừng.
  • Phân bố mật độ theo đường kính: Biểu đồ và hàm toán học phân bố mật độ cây rừng theo chỉ tiêu đường kính.
  • Phân bố mật độ theo chiều cao: Tương tự như với đường kính chỉ khác là căn cứ theo chiều cao.

Phát triển của rừng[sửa|sửa mã nguồn]

Giống thành viên sinh vật, rừng cũng có sự biến hóa theo thời hạn. Nesterop ( 1949 ) đã chia quy trình tăng trưởng của rừng thành những tiến trình : ( hầu hết vận dụng cho rừng trồng, rừng ôn đới ) .

  • Rừng non: Mối quan hệ giữa các cây gỗ là mối quan hệ hỗ trợ. Chỉ xuất hiện mối quan hệ cạnh tranh giữ cây gỗ và cây bụi thảm tươi.
  • Rừng sào: Rừng bắt đầu khép tán, xuất hiện quan hệ cạnh tranh gay gắt về ánh sáng và chiều cao giữa các cá thể cây gỗ. Giai đoạn này cây gỗ phát triển mạnh về chiều cao.
  • Rừng trung niên: Rừng khép tán hoàn toàn, sự phát triển về chiều cao chậm lại, có sự phát triển về đường kính. Rừng đã thành thục về tái sinh.
  • Rừng gần già: Giai đoạn này có sự phân chia không rõ với 2 giai đoạn liền trước và liền sau của nó. Trong giai đoạn này cây rừng vẫn có sự ra hoa kết quả và tăng trưởng về đường kính.
  • Rừng già: Trữ lượng cây gỗ đạt tối đa. Có một vài cây gỗ già, chết. Tán cây thưa dần, cây rừng vẫn ra hoa kết quả nhưng chất lượng không tốt.
  • Rừng quá già: Cây tầng cao ngừng trệ sinh trưởng, ra hoa quả ít, chống đỡ bệnh tật kém, có hiện tượng rỗng ruột và dễ dàng gãy đổ.

Diễn thế rừng[sửa|sửa mã nguồn]

Hệ sinh thái rừng với những đặc trưng riêng, luôn vận động và biến đổi không ngừng. Quá trình này được gọi chung là động thái rừng. Diễn thế rừng là một trong các trạng thái vận động của hệ sinh thái rừng bao. Diễn thế rừng là sự thay thế thế hệ rừng này bằng thế hệ rừng khác mà trong đó tổ thành loài cây cao – nhất là loài cây ưu thế sinh thái – có sự thay đổi cơ bản. Nói cách khác, diễn thế rừng là sự thay thế hệ sinh thái rừng này bằng hệ sinh thái rừng khác. Hiểu theo một các đơn giản nhất, diễn thế rừng không phải là sự thay thế các thế hệ cây rừng mà là sự thay thế các loài cây rừng.

Ví dụ :

  • Cỏ → Cây bụi → Cây cao ưa sáng → Cây cao chịu bóng.
  • Rừng → Rừng gỗ + Tre nứa → Cây bụi → Cỏ.

Nguyên nhân của diễn thế rừng theo Sucasov ( 1954, 1964 ) hoàn toàn có thể là mối quan hệ tác động ảnh hưởng cạnh tranh đối đầu lẫn nhau giữa những loài, loài nào cạnh tranh đối đầu tốt thì sẽ chiếm lợi thế, Ví dụ như diễn thế rừng ngập mặn : Mắm → Giá, Vẹt. Hoặc hoàn toàn có thể là do sự cạnh tranh đối đầu giữa những loài làm đổi khác môi trường tự nhiên sống, Open 1 loài mới đến định cư. Ngoài ra còn chịu ảnh hưởng tác động của nhiều nguyên do bên ngoài khác như : đất đai đổi khác, những nạn dịch sâu bệnh ( ví dụ : dịch châu chấu ), tác động ảnh hưởng mãnh liệt của con người .Phân loại diễn thế theo những địa thế căn cứ khác nhau : Theo khunh hướng diễn thế, phân thành hai loại : Diễn thế tiến hóa và diễn thế thoái hoá. Theo nguồn gốc diễn thế, phân thành hai loại : Diễn thế nguyên sinh và diễn thế thứ sinh .

Diễn thế nguyên sinh[sửa|sửa mã nguồn]

Là sự hình thành rừng ở những nơi trọn vẹn chưa hề có rừng, trải qua 1 loạt những sự đổi khác của những quần xã thực vật khác nhau sau cuối hình thành nên quần xã thực vật rừng tương đối không thay đổi .

Diễn thế nguyên sinh gồm 4 pha:

  • Di cư: Sự di cư các mầm mống thực vật đến vùng đất mới.
  • Định cư: Các mầm mống thực vật thích nghi, phát triển những thế hệ đầu tiên.
  • Quần tập: Xuất hiện tái sinh tự nhiên.
  • Xâm nhập: Nhóm thực vật khác xâm nhập vào nhóm thực vật đã thích nghi ổn định trước và đã tác động đến môi trường sống.

Ví dụ : Diễn thế rừng ngập mặn. Cây Mắm, Sú đã tiên phong xâm nhập vùng đất ngập nước mới lắng động cát ở ven bờ, chúng thích nghi và tăng trưởng, cố định và thắt chặt cát bùn, làm đổi khác dần môi trường tự nhiên sống, đến 1 quy trình tiến độ nào đó sẽ Open sự xâm nhập của Vẹt, Rà, những loài này sẽ chiếm lợi thế và lấn áp loài cũ để tăng trưởng thành quần xã lợi thế, môi trướng sống sẽ biến hóa, tích góp nhiều mùn hơn, cạn hơn. Sau quá trình này sẽ Open những loài sống bán ngập ( Đước ), tiến dần đế Open những loài thực vật sống cạn ( Tràm ) .

Diễn thế thứ sinh[sửa|sửa mã nguồn]

Diễn thế thứ sinh diễn ra trên cơ sở diễn thế nguyên sinh, mở màn từ khi hệ sinh thái rừng bị tác động ảnh hưởng từ bên ngoài ( khai thác, chặt phá, nương rẫy … ), sau đó là hồi sinh rừng và hình thành nên những rừng thứ sinh. Các tác nhân ảnh hưởng tác động đến diễn thế thứ sinh : Hình thức và mức độ ảnh hưởng tác động vào rừng, điều kiện kèm theo khí hậu, thổ nhưỡng. Ví dụ : Nương rẫy hoang hóa → Cây bụi → Các loài ưa sáng → Rừng thứ sinh .

Giáo trình Đại học Lâm nghiệp Việt Nam
  • Sinh thái rừng– Nhà xuất bản Nông nghiệp, 2006;
  • Lâm học– Nhà xuất bản Nông nghiệp, 2006;
  • Lâm học nhiệt đới-Nhà xuất bản Nông nghiệp, 2005;
  • Lâm nghiệp đại cương-Nhà xuất bản Nông nghiệp, 2004.
Khác
  • Phân loại rừng của Loestchaux;
  • The tropical forest (W.Richard, 1956).

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Rate this post