Nho – Wikipedia tiếng Việt

Đối với những định nghĩa khác, xem Nho ( khuynh hướng ) Một chùm nho xanh

Nho là một loại quả mọng lấy từ các loài cây thân leo thuộc chi Nho (Vitis). Quả nho mọc thành chùm từ 6 đến 300 quả, chúng có màu đen, lam, vàng, lục, đỏ-tía hay trắng. Khi chín, quả nho có thể ăn tươi hoặc được sấy khô để làm nho khô, cũng như được dùng để sản xuất các loại rượu vang, thạch nho, nước quả, mật nho, dầu hạt nho. Trong tiếng Trung, nó được gọi là bồ đào (葡萄) và khi người ta nói đến rượu bồ đào tức là rượu sản xuất từ quả nho. Tuy nhiên, các loài nho dại lại bị coi là một loại cỏ dại gây nhiều phiền toái, do chúng che phủ các loài thực vật khác với tốc độ tăng trưởng rất nhanh của mình. Nho bị ấu trùng của một số loài côn trùng thuộc bộ Lepidoptera phá hại – xem thêm tại Danh sách các loài cánh vẩy phá hại nho.

Việc trồng nho thuần hóa đã bắt đầu vào 6.000–8.000 năm trước ở Cận Đông.[1] Bằng chứng khảo cổ xa xưa nhất về vị trí làm rượu vang của con người cách nay 8.000 năm trước ở Gruzia.[2][3]

Bạn đang đọc: Nho – Wikipedia tiếng Việt

Nấm men, một trong những vi sinh vật được thuần hóa sớm nhất, Open trong tự nhiên trên vỏ nho, đã dẫn đến sự thay đổi những thức uống có cồn như rượu vang. Việc sản xuất rượu vang sớm nhất đã được biết đến vào khoảng chừng 8.000 năm trước thuộc chủ quyền lãnh thổ của Gruzia. [ 4 ] Trong một dự án Bất Động Sản lập map gen lan rộng ra, những nhà khảo cổ học đã nghiên cứu và phân tích di sản của hơn 100 giống nho tân tiến, và thu hẹp nguồn gốc của chúng vào vùng Gruzia, nơi dư lượng rượu vang cũng đã được phát hiện trên mặt phẳng bên trong của bình gốm tàng trữ 8.000 tuổi. Các nhà máy sản xuất rượu vang truyền kiếp nhất được tìm thấy ở Armenia, có niên đại khoảng chừng 4000 trước Công nguyên. Vào thế kỷ thứ 9 thành phố Shiraz đã được biết đến đã sản xuất 1 số ít loại rượu vang tốt nhất ở Trung Đông. Do đó, người ta cho rằng rượu vang đỏ Syrah được đặt tên theo Shiraz, một thành phố ở Ba Tư nơi nho đã được sử dụng để làm rượu Shirazi. Chữ viết tượng hình Ai Cập cổ đại đã ghi lại việc trồng nho tím, và lịch sử vẻ vang vật chứng rằng người Hy Lạp, Phoenicia và La Mã cổ đại đã trồng nho tím để ăn và sản xuất rượu vang. Việc trồng nho sau đó lan sang những khu vực khác ở châu Âu, cũng như Bắc Phi, và ở đầu cuối ở Bắc Mỹ .

Ở Bắc Mỹ, có nhiều loài nho bản địa thuộc chi Vitis sinh sống trong tự nhiên trên khắp lục địa, và là một phần trong khẩu phần ăn của người Mỹ bản địa. Thực dân châu Âu nhận thấy chúng không phù hợp để sản xuất rượu vang, nên đã nhập giống nho Vitis vinifera để phục vụ cho sản xuất rượu.

Các giống nho[sửa|sửa mã nguồn]

Nho mọc thành từng chùm có khoảng 15 đến 300 quả, và có nhiều màu sắc khác nhau như đen, xanh thẫm, vàng, lục, cam và tím. Nho “trắng” thực chất là có màu lục, và có nguồn gốc tiến hóa từ nho tía. Đột biến ở hai gen quy định của nho trắng làm mất sự sản xuất anthocyanin, một chất tạo màu tía của nho.[5] Anthocyanin và các chất tạo màu khác trong họ polyphenol tạo màu tía giúp tạo ra sắc tía trong rượu vang đỏ.[6][7]

Phần lớn nho được thu hoạch từ loài được trồng là Vitis vinifera, loài làm rượu vang châu Âu bản địa của vùng Địa Trung Hải và Trung Á. Một lượng nhỏ trái và rượu có nguồn gốc từ các loài châu Mỹ và châu Á như:

  • Vitis labrusca, loài nho làm rượu châu Mỹ, bản địa của miền Đông Hoa Kỳ và Canada.
  • Vitis riparia, loài nho hoang của Bắc Mỹ, đôi khi dùng làm mứt và rượu vang. Đây là loài bản địa của đông Hoa Kỳ và bắc Quebec.
  • Vitis rotundifolia, được dùng làm mứt và rượu, là loài bản địa của đông nam Hoa Kỳ từ Delaware đến vịnh Mexico.
  • Vitis amurensis loài nho quan trọng của châu Á.

Diện tích trồng[sửa|sửa mã nguồn]

Theo số liệu của FAO, 75.866 km² trên quốc tế được dùng để trồng nho. Khoảng 71 % sản lượng nho được dùng sản xuất rượu vang, 27 % để ăn dưới dạng quả tươi và 2 % làm nho khô .
Danh sách dưới đây liệt kê 11 quốc gia sản xuất rượu vang nho số 1 quốc tế với diện tích quy hoạnh trồng nho tương ứng cho việc sản xuất rượu vang : [ 8 ]

Các nhà nghiên cứu, chẳng hạn như Marty Mayo, đã so sánh khẩu phần dinh dưỡng ở các quốc gia phương Tây và đã phát hiện ra rằng mặc dù người Pháp có xu hướng ăn nhiều chất béo động vật hơn, nhưng tỷ lệ mắc bệnh tim mạch ở người Pháp lại khá thấp. Họ gọi hiện tượng này là nghịch lý‎ Pháp. Nhiều người cho rằng nguyên nhân là người Pháp tiêu thụ nhiều rượu vang đỏ hơn. Các chất có trong quả nho đã làm nồng độ cholesterol trong cơ thể thấp hơn và vì thế làm chậm lại quá trình tích lũy trong động mạch. Các hợp chất như resveratrol (chất chống oxy hóa polyphenol) đã được tìm thấy có trong nho và chúng có liên quan đến việc phòng chống ung thư, các bệnh tim mạch, làm suy hóa các bệnh liên quan đến thần kinh và các bệnh tật khác. Các bác sĩ không khuyến cáo dùng nhiều rượu vang đỏ, nhưng việc sử dụng từ 3-4 cốc trong một tuần là có lợi cho sức khỏe và được khuyến khích[cần dẫn nguồn].

Mặc dù nhiều người nhận thức một cách sai lầm đáng tiếc rằng những loại nho đỏ là có lợi hơn cho sức khỏe thể chất, trên trong thực tiễn tổng thể những loại nho có màu khác cũng đem lại những quyền lợi đáng kể. Tuy nhiên, rượu vang đỏ đem lại 1 số ít quyền lợi cho sức khỏe thể chất mà không thấy có ở rượu vang trắng, do nhiều chất có lợi cho sức khỏe thể chất được tìm thấy ở lớp vỏ quả nho, mà chỉ có vang đỏ mới được lên men bằng cả vỏ quả .Một nhận thức sai lầm đáng tiếc khác là người ta cho rằng rượu vang trắng được sản xuất từ những giống nho có vỏ màu xanh. Trên trong thực tiễn, nó hoàn toàn có thể được sản xuất từ bất kể giống nho nào. Vang đỏ được sản xuất từ những giống nho vỏ đỏ, nhưng sự tạo màu là hiệu quả của việc thêm cả vỏ vào trong quy trình ngâm ủ ( lên men ) .

Các loại nho khô[sửa|sửa mã nguồn]

Nho khô là bất kỳ loại quả nho được làm khô nào. Nho khô Zante (currant) hay còn gọi là nho Hy Lạp, là nho khô của vùng Zakynthos, tên gọi này là sự sửa đổi sai lạc của từ trong tiếng Pháp raisin de Corinthe (nho Corinth). Nho sultana (nho xuntan) nguyên thủy là nho khô sản xuất từ một giống nho không hạt có nguồn gốc Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng hiện nay nó được dùng để chỉ bất kỳ thứ nho khô nào được xử lý‎ bằng hóa chất để giống như nho sultana truyền thống.

Chất chiết từ hạt nho[sửa|sửa mã nguồn]

Hạt nho có chứa những procyanidolic oligomer, viết tắt là PCO. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra Kết luận là những PCO củng cố những mạch máu và cải thiện sự lưu thông máu. Các chất chiết từ hạt nho hoàn toàn có thể giúp chống lão hóa, giảm những bệnh tim mạch, cản trở những tế bào ung thư, giảm bớt những triệu chứng dị ứng và trạng thái stress của mắt cũng như giúp phòng chống một số ít bệnh da liễu. Trong những nghiên cứu và điều tra gần đây, những chất chiết từ hạt nho cũng có tính năng giảm bớt xellulit ( một chứng bệnh do mỡ lồi ra hạ bì, tạo thành những vệt lồi lõm trên da ) và hạ thấp mức cholesterol và huyết áp. Các chất chiết từ hạt nho có ở ba dạng sau : lỏng, viên nén và viên nang .
Nho không hạt Thompson

Nho không hạt[sửa|sửa mã nguồn]

Nho không hạt là một đặc điểm được đánh giá cao khi đem dùng ở dạng quả tươi và các giống không hạt hiện nay đã chiếm một tỷ lệ áp đảo trong số các giống nho trồng để ăn quả tươi. Do việc trồng nho có thể bằng các cành giâm, cho nên việc không có hạt không tạo ra vấn đề cho việc tái sinh sản nho. Tuy nhiên, nó là vấn đề cho những người nhân giống, họ hoặc phải sử dụng các giống có hạt làm cây mẹ hoặc lấy ra các phôi mầm từ sớm trong quá trình phát triển bằng các kỹ thuật nuôi cấy mô.

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Rate this post