Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á – Wikipedia tiếng Việt

Quốc kỳ của 10 nước thành viên ASEAN

Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (tiếng Anh: Association of South East Asian Nations, viết tắt là ASEAN) là một tổ chức chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Tổ chức này được thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1967 với các thành viên đầu tiên là Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore và Philippines, nhằm biểu hiện tinh thần đoàn kết giữa các nước trong cùng khu vực với nhau, đồng thời hợp tác chống tình trạng bạo động và bất ổn tại những nước thành viên. Sau Hội nghị Bali năm 1976, ASEAN xúc tiến chương trình cộng tác kinh tế, nhưng các nỗ lực đều đi đến bế tắc vào giữa thập niên 1980. Phải đợi đến năm 1991, khi Thái Lan đề xuất thành lập khu vực thương mại tự do, thì Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN mới hình thành. Hàng năm, các nước thành viên đều luân phiên tổ chức các cuộc hội họp chính thức để tăng cường hợp tác. Hiện tại, ASEAN gồm có 10 quốc gia thành viên: Brunei, Campuchia, Lào, Indonesia, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan, Việt Nam. Hai quốc gia không phải thành viên của ASEAN là Đông Timor và Papua New Guinea hiện đang giữ vai trò quan sát viên.

ASEAN có diện tích đất 4,46 triệu km², chiếm 3% tổng diện tích đất của Trái Đất, và có dân số khoảng 600 triệu người đông nam á, chiếm 8,8% dân số thế giới. Vùng biển của ASEAN có diện tích gấp ba lần so với diện tích đất. Năm 2018, tổng GDP ước tính của tất cả các quốc gia ASEAN lên tới xấp xỉ 2,92 nghìn tỷ USD[3]. Nếu coi ASEAN là một thực thể duy nhất thì thực thể này sẽ xếp hạng 5 trong số các nền kinh tế lớn nhất thế giới theo GDP thực tế, sau Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức. Dự kiến đến năm 2030, thực thể này có thể vươn lên thứ 4 thế giới.

Vào ngày 31 tháng 12 năm năm ngoái, Cộng đồng Kinh tế ASEAN ( ASEAN Economic Community – AEC ) được xây dựng. [ 4 ]

Tiền thân của ASEAN là tổ chức có tên Hiệp hội Đông Nam Á, thường được gọi tắt là ASA. ASA là một liên minh thành lập năm 1961 gồm Philippines, Malaysia và Thái Lan. Ngày 8 tháng 8 năm 1967, khi các Ngoại trưởng của 5 quốc gia – Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, và Thái Lan – gặp gỡ tại Bộ Ngoại giao Thái Lan ở Bangkok đã ra Tuyên bố ASEAN, thường được gọi là Tuyên bố Bangkok, để nhập ASA cùng với Indonesia và Singapore thành ASEAN. 5 ngoại trưởng – Adam Malik của Indonesia, Narciso Ramos của Philippines, Abdul Razak của Malaysia, S. Rajaratnam của Singapore, và Thanat Khoman của Thái Lan – được coi là những sáng lập viên của tổ chức này.[5]

3 động lực tạo ra ASEAN là mục tiêu thiết kế xây dựng quốc gia và tiềm năng tăng trưởng kinh tế tài chính, chính trị và bảo mật an ninh. Các vương quốc trong vùng khi đã mất tin cậy vào những cường quốc bên ngoài đã tìm đến nhau trong toàn cảnh của thập niên 1960 hầu tương hỗ lẫn nhau. Đối với Indonesia, thì nước này còn có tham vọng bá chủ trong khu vực trong khi Malaysia và Nước Singapore thì lại muốn dùng ASEAN để kiềm chế Indonesia, đưa nước này vào một khuôn khổ mang tính hợp tác hơn. Khác với Liên minh châu Âu với quy mô phân giảm quyền hành tập trung chuyên sâu ở mỗi vương quốc, ASEAN có mục tiêu bảo vệ và chấn hưng chủ nghĩa vương quốc. [ 6 ]Năm 1976, Papua New Guinea được trao quy định quan sát viên. [ 7 ] Trong suốt thập niên 1970, tổ chức triển khai này bám vào một chương trình hợp tác kinh tế tài chính, sau Hội nghị thượng đỉnh Bali năm 1976. Nó đã giảm giá trị hồi giữa thập niên 80 và chỉ được phục sinh khoảng chừng năm 1991 nhờ một yêu cầu của Xứ sở nụ cười Thái Lan về một khu vực tự do thương mại cấp vùng. Sau đó khối này lan rộng ra khi Brunei trở thành thành viên thứ 6 sau khi gia nhập ngày 8 tháng 1 năm 1984, chỉ một tuần sau khi họ giành được độc lập ngày 1 tháng 1. [ 8 ]Ngày 28 tháng 7 năm 1995, Nước Ta trở thành thành viên thứ 7. [ 9 ] Lào và Myanmar gia nhập ngày 23 tháng 7 năm 1997. [ 10 ] Campuchia đã dự tính gia nhập cùng Lào và Myanmar, nhưng bị trị hoãn vì cuộc tranh giành chính trị nội bộ. Nước này sau đó gia nhập ngày 30 tháng 4 năm 1999, sau khi đã không thay đổi cơ quan chính phủ. [ 10 ] [ 11 ]

Trong thập niên 1990, khối có sự gia tăng cả về số thành viên cũng như khuynh hướng tiếp tục hội nhập. Năm 1990, Malaysia đề nghị thành lập một Diễn đàn Kinh tế Đông Á[12] gồm các thành viên hiện tại của ASEAN và Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, với mục tiêu cân bằng sự gia tăng ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại Tổ chức Hợp tác Kinh tế châu Á Thái Bình Dương (APEC) cũng như tại vùng châu Á như một tổng thể.[13][14] Tuy nhiên, đề xuất này đã thất bại bởi nó gặp sự phản đối mạnh mẽ từ Nhật Bản và Hoa Kỳ.[13][15] Dù vậy, các quốc gia thành viên tiếp tục làm việc để hội nhập sâu hơn. Năm 1992, kế hoạch Biểu thuế Ưu đãi chung (CEPT) được ký kết như một thời gian biểu cho việc từng bước huỷ bỏ các khoản thuế và như một mục tiêu tăng cường lợi thế cạnh tranh của vùng như một cơ sở sản xuất hướng tới thị trường thế giới. Điều luật này sẽ hoạt động như một khuôn khổ cho Khu vực Tự do Thương mại ASEAN. Sau cuộc Khủng hoảng Tài chính Đông Á năm 1997, một sự khôi phục lại đề nghị của Malaysia được đưa ra tại Chiang Mai, được gọi là Sáng kiến Chiang Mai, kêu gọi sự hội nhập tốt hơn nữa giữa các nền kinh tế của ASEAN cũng như các quốc gia ASEAN+3 (Trung Quốc, Nhật Bản, và Hàn Quốc).[16]

Bên cạnh việc cải tổ nền kinh tế tài chính của mỗi vương quốc thành viên, khối hiệp ước cũng tập trung chuyên sâu trên hoà bình và sự không thay đổi của khu vực. Ngày 15 tháng 12 năm 1995, Hiệp ước Khu vực Đông Nam Á Không Vũ khí hạt nhân đã được ký kết với mục tiêu biến Khu vực Đông Nam Á trở thành Vùng Không Vũ khí hạt nhân. Hiệp ước có hiệu lực thực thi hiện hành ngày 28 tháng 3 năm 1997 nhưng mới chỉ có một vương quốc thành viên phê chuẩn nó. Nó trọn vẹn có hiệu lực hiện hành ngày 21 tháng 6 năm 2001, sau khi Philippines phê chuẩn, cấm trọn vẹn mọi loại vũ khí hạt nhân trong vùng. [ 17 ]Sau khi thế kỷ XXI mở màn, những yếu tố chuyển sang khuynh hướng thiên nhiên và môi trường hơn. Tổ chức này mở màn đàm phán những thoả thuận về môi trường tự nhiên. Chúng gồm có việc ký kết Thoả thuận về Ô nhiễm Khói bụi Xuyên biên giới ASEAN năm 2002 như một nỗ lực nhằm mục đích trấn áp ô nhiễm khói bụi ở Khu vực Đông Nam Á. [ 18 ] Không may thay, nó không thành công xuất sắc vì những vụ bùng phát khói bụi Malaysia năm 2005 và khói bụi Khu vực Đông Nam Á năm 2006. Các hiệp ước thiên nhiên và môi trường khác do tổ chức triển khai này đưa ra gồm Tuyên bố Cebu về An ninh Năng lượng Đông Á, [ 19 ] the ASEAN-Wildlife Enforcement Network in 2005, [ 20 ] và Đối tác châu Á Thái Bình Dương về Phát triển Sạch và Khí hậu, cả hai đều nhằm mục đích xử lý những hiệu ứng hoàn toàn có thể xảy ra từ sự đổi khác khí hậu. Thay đổi khí hậu cũng là yếu tố được chăm sóc lúc bấy giờ .Trong Hiệp ước Bali II năm 2003, ASEAN đã ưng ý khái niệm hoà bình dân chủ, có nghĩa là mọi thành viên tin rằng những quy trình dân chủ sẽ thôi thúc hoà bình và không thay đổi trong khu vực. Tương tự, những thành viên phi dân chủ đều chấp thuận đồng ý rằng đây là điều mà mọi vương quốc thành viên đều mong ước thực thi. [ 21 ]Các chỉ huy của mỗi nước, đặc biệt quan trọng là Mahathir Mohamad của Malaysia, cũng cảm thấy sự thiết yếu hội nhập hơn nữa của khu vực. Bắt đầu từ năm 1997, khối đã xây dựng những tổ chức triển khai bên trong khuôn khổ của họ với tiềm năng hoàn thành xong tham vọng này. ASEAN + 3 là tổ chức triển khai tiên phong trong số đó được xây dựng để cải tổ những quan hệ sẵn có với Trung Quốc, Nhật Bản và Nước Hàn. Tiếp đó là Hội nghị cấp cao Đông Á còn to lớn hơn, gồm có toàn bộ những nước trên cùng Ấn Độ, Úc và New Zealand. Nhóm mới này hoạt động giải trí như một điều kiện kèm theo tiên quyết cho Cộng đồng Đông Á đã được lên kế hoạch, dự tính theo quy mô của Cộng đồng châu Âu hiện đã không còn hoạt động giải trí nữa. Nhóm Nhân vật Nổi bật ASEAN đã được tạo ra để điều tra và nghiên cứu những thành công xuất sắc và thất bại hoàn toàn có thể xảy ra của chủ trương này cũng như năng lực về việc soạn thảo một Hiến chương ASEAN .Năm 2006, ASEAN được trao vị thế quan sát viên của Đại hội đồng Liên hiệp quốc. [ 22 ] Đổi lại, tổ chức triển khai này trao vị thế ” đối tác chiến lược đối thoại ” cho Liên hiệp quốc. [ 23 ] Hơn nữa, ngày 23 tháng 7 năm đó, José Ramos-Horta, khi ấy là Thủ tướng Đông Timor, đã ký một nhu yếu chính thức về vị thế thành viên và kỳ vọng quy trình gia nhập sẽ kết thúc tối thiểu năm năm trước khi nước này khi ấy đang là một quan sát viên trở thành một thành viên chính thức. [ 24 ] [ 25 ]

Năm 2007, ASEAN kỷ niệm lần thứ 40 ngày khởi đầu, và 30 năm quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ.[26] Ngày 26 tháng 8 năm 2007, ASEAN nói rằng các mục tiêu của họ là hoàn thành mọi thoả thuận tự do thương mại của Tổ chức này với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Úc và New Zealand vào năm 2013, vùng với việc thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2015.[27][28] Tháng 11 năm 2007 các thành viên ASEAN đã ký Hiến chương ASEAN, một điều luật quản lý mọi quan hệ bên trong các thành viên ASEAN và biến ASEAN thành một thực thể luật pháp quốc tế. Cùng trong năm ấy, Tuyên bố Cebu về An ninh Năng lượng Đông Á tại Cebu ngày 15 tháng 1 năm 2007, của ASEAN và các thành viên khác của EAS (Úc, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, New Zealand, Hàn Quốc), khuyến khích an ninh năng lượng bằng cách tài trợ vốn cho các nghiên cứu về năng lượng thay thế cho các loại nhiên liệu quy ước.[cần dẫn nguồn]

Ngày 27 tháng 2 năm 2009, một Thỏa thuận Tự do Thương mại giữa 10 vương quốc thành viên khối ASEAN và New Zealand cùng đối tác chiến lược thân cận của họ là Úc đã được ký kết, ước tính rằng thỏa thuận hợp tác này sẽ làm tăng GDP của 12 vương quốc lên thêm hơn 48 tỷ USD trong quá trình 2000 – 2020. [ 29 ] [ 30 ]

Mục lục nội dung

Các thành viên[sửa|sửa mã nguồn]

█ █ Thành viên đầy đủ ASEAN
█ █ Quan sát viên ASEAN
█ █ Ứng cử viên ASEAN và gia nhập ASEAN
██ ASEAN + 3
███ Hội nghị cấp cao Đông Á
██████ Diễn đàn Khu vực ASEANThành viên khá đầy đủ ASEANQuan sát viên ASEANỨng cử viên ASEAN và gia nhập ASEANASEAN + 3H ội nghị cấp cao Đông ÁDiễn đàn Khu vực ASEANHiện nay, tổ chức triển khai này gồm 10 vương quốc thành viên được liệt kê theo ngày gia nhập :

Cơ cấu tổ chức triển khai[sửa|sửa mã nguồn]

Bộ máy hoạt động giải trí của ASEAN được pháp luật như sau :

  1. Hội nghị cấp cao ASEAN (ASEAN Summit): Đây là cơ quan quyền lực cao nhất của hiệp hội, họp chính thức 1 năm/lần.
  2. Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (ASEAN Ministerial Meeting – AMM): theo Tuyên bố Băng Cốc năm 1967, AMM là hội nghị hàng năm của các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN có trách nhiệm đề ra và phối hợp các hoạt động của ASEAN, có thể họp không chính thức khi cần thiết.
  3. Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN (ASEAN Economic Ministers – AEM):AEM họp chính thức hàng năm và có thể họp không chính thức khi cần thiết. Trong AEM có hội đồng AFTA được thành lập theo quyết định của hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 4 tại Singapore.
  4. Hội nghị Bộ trưởng các ngành: Hội nghị Bộ trưởng của một ngành trong hợp tác kinh tế ASEAN sẽ được tổ chức khi cần thiết để thảo luận sự hợp tác trong ngành cụ thể đó. Hiện có Hội nghị Bộ trưởng năng lượng, Hội nghị Bộ trưởng Nông nghiệp, Lâm nghiệp. Các Hội nghị Bộ trưởng ngành có trách nhiệm báo cáo lên AEM.
  5. Các hội nghị bộ trưởng khác: Hội nghị Bộ trưởng của các lĩnh vực hợp tác ASEAN khác như y tế, môi trường, lao động, phúc lợi xã hội, giáo dục, khoa học và công nghệ, thông tin, luật pháp có thể được tiến hành khi cần thiết để điều hành các chương trình hợp tác trong các lĩnh vực này.
  6. Hội nghị liên Bộ trưởng (Join Ministerial Meeting – JMM): JMM được tổ chức khi cần thiết để thúc đẩy sự hợp tác giữa các ngành và trao đổi ý kiến về hoạt động của ASEAN. JMM bao gồm các Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Kinh tế ASEAN.
  7. Tổng Thư ký ASEAN: Được những Người đứng đầu Chính phủ ASEAN bổ nhiệm theo khuyến nghị của Hội nghị AMM với nhiệm kỳ là 3 năm và có thể gia hạn thêm, nhưng không quá một nhiệm kỳ nữa; có hàm Bộ trưởng với quyền hạn khởi xướng, khuyến nghị và phối hợp các hoạt động của ASEAN, nhằm giúp nâng cao hiệu quả các hoạt động và hợp tác của ASEAN. Tổng thư ký ASEAN được tham dự các cuộc họp các cấp của ASEAN, chủ toạ các cuộc họp của ASC thay cho Chủ tịch ASC trừ phiên họp đầu tiên và cuối cùng. Tổng thư ký hiện nay là ông Lâm Ngọc Huy (Lim Jock Hoi) cựu Bí thư thường trực Bộ Ngoại thương Brunei.
  8. Ủy ban thường trực ASEAN (ASEAN Standing Committee – ASC): ASC bao gồm chủ tịch là Bộ trưởng Ngoại giao của nước đăng cai Hội nghị AMM sắp tới, Tổng Thư ký ASEAN và Tổng Giám đốc của các Ban thư ký ASEAN quốc gia. ASC thực hiện công việc của AMM trong thời gian giữa 2 kỳ họp và báo cáo trực tiếp cho AMM.
  9. Cuộc họp các quan chức cao cấp (Senior Officials Meeting – SOM): SOM được chính thức coi là một bộ phận của cơ cấu trong ASEAN tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 3 tại Manila 1987. SOM chịu trách nhiệm về hợp tác chính trị ASEAN và họp khi cần thiết; báo cáo trực tiếp cho AMM.
  10. Cuộc họp các quan chức kinh tế cao cấp (Senior Economic Officials Meeting – SEOM): SEOM cũng đã được thể chế hoá chính thức thành một bộ phận của cơ cấu ASEAN tại Hội nghị Cấp cao Manila 1987. Tại hội nghị Cấp cao ASEAN 4 năm 1992, 5 uỷ ban kinh tế ASEAN đã bị giải tán và SEOM được giao nhiệm vụ theo dõi tất cả các hoạt động trong hợp tác kinh tế ASEAN. SEOM họp thường kỳ và báo cáo trực tiếp cho AEM.
  11. Cuộc họp các quan chức cao cấp khác: Ngoài ra có các cuộc họp các quan chức cao cấp về môi trường,ma tuý cũng như của các uỷ ban chuyên ngành ASEAN như phát triển xã hội, khoa học và công nghệ, các vấn đề công chức, văn hoá và thông tin. Các cuộc họp này báo cáo cho ASC và Hội nghị các Bộ trưởng liên quan.
  12. Cuộc họp tư vấn chung (Joint Consultative Meeting – JCM): Cơ chế họp JCM bao gồm Tổng thư ký ASEAN, SOM, SEOM, các Tổng giám đốc ASEAN. JCM được triệu tập khi cần thiết dưới sự chủ toạ của Tổng Thư ký ASEAN để thúc đẩy sự phối hợp giữa các quan chức liên ngành. Tổng Thư ký ASEAN sau đó thông báo kết quả trực tiếp cho AMM và AEM.
  13. Các cuộc họp của ASEAN với các bên đối thoại: ASEAN có 11 bên đối thoại: Úc, Canada, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, New Zealand, UNDP, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ.ASEAN cũng đối thoại theo từng lĩnh vực với Pakistan.

Trước khi có cuộc họp với những Bên đối thoại, những nước ASEAN tổ chức triển khai cuộc họp trù bị để phối hợp có lập trường chung. Cuộc họp này do quan chức hạng sang của nước điều phối ( Coordinating Country ) chủ trì và báo cáo giải trình cho ASC .

  1. Ban thư ký ASEAN quốc gia: Mỗi nước thành viên ASEAN đều có Ban thư ký quốc gia đặt trong bộ máy của Bộ Ngoại giao để tổ chức, thực hiện và theo dõi các hoạt động liên quan đến ASEAN của nước mình. Ban thư ký quốc gia do một Tổng Vụ trưởng phụ trách.

Phương thức ASEAN[sửa|sửa mã nguồn]

Trong thập niên 1960, sự thôi thúc giải thực đã mang lại chủ quyền lãnh thổ cho Indonesia và Malaysia cùng những vương quốc khác. Bởi việc thiết kế xây dựng vương quốc luôn là khó khăn vất vả và dễ gặp sự can thiệp từ bên ngoài, giới cầm quyền muốn được tự do triển khai những chủ trương độc lập, với nhận thức rằng những nước láng giếng sẽ kiềm chế không can thiệp vào việc làm nội bộ của họ. Về chủ quyền lãnh thổ, những thành viên nhỏ như Nước Singapore và Brunei luôn quan ngại về những giải pháp đấm đá bạo lực và cưỡng bức từ những nước láng giềng lớn hơn như Indonesia và Malaysia. ” Thông qua đối thoại chính trị và thiết kế xây dựng ý thức, stress sẽ không leo thang thành cạnh tranh đối đầu đấm đá bạo lực trong những vương quốc thành viên ASEAN từ khi nó được xây dựng hơn ba thập niên trước “. [ 31 ]Phương thức ASEAN hoàn toàn có thể truy nguồn gốc từ việc ký kết Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Khu vực Đông Nam Á. ” Các nguyên tắc nền tảng được trải qua trong hiệp ước này gồm : tôn trọng lẫn nhau về độc lập, chủ quyền lãnh thổ, bình đẳng, tính toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, và truyền thống vương quốc của toàn bộ những nước ; quyền của mọi Nhà nước duy trì sự sống sót vương quốc của mình không gặp trở ngại từ sự can thiệp, phá hoại, cưỡng bức từ bên ngoài ; không can thiệp vào việc làm nội bộ của nhau ; xử lý những độc lạ hay tranh chấp bằng giải pháp hoà bình ; từ bỏ rình rập đe dọa hay sử dụng đấm đá bạo lực ; và hợp tác có hiệu suất cao với nhau “. [ 32 ]Ngoài mặt, quy trình tư vấn và đồng thuận được cho là một cách tiếp cận trong việc đưa ra quyết định hành động, nhưng Phương thức ASEAN đã được điều khiển và tinh chỉnh trải qua những tiếp xúc thân cận giữa những cá thể chỉ trong giới chỉ huy, họ thường cùng chần chừ trong việc định chế hoá và pháp điển hoá sự hợp tác, hoàn toàn có thể làm tổn hại tới sự trấn áp của chính sách của họ với việc triển khai hợp tác trong vùng. Vì thế, tổ chức triển khai có một vị thư ký quản lý. [ 33 ]Tất cả những đặc tính trên, nói gọn là không can thiệp, không chính thức, tối thiểu hoá việc định chế hoá, tư vấn và đồng thuận, không sử dụng vũ lực và không cạnh tranh đối đầu đã tạo thành cái được gọi là Phương thức ASEAN .Từ cuối thập niên 1990, nhiều học giả đã cho rằng nguyên tắc không can thiệp đã làm tổn hại tới những nỗ lực của ASEAN trong việc xử lý yếu tố Myanmar, vi phạm nhân quyền và ô nhiễm khói bụi trong vùng. Tuy nhiên, với cách tiếp cận dựa trên đồng thuận, mọi thành viên trên thực tiễn đều có quyền phủ quyết và những quyết định hành động thường bị giảm xuống mức mẫu thức chung thấp nhất. Có một sự tin yêu thoáng đãng rằng những thành viên ASEAN phải có một quan điểm ít cứng ngắc hơn về hai nguyên tắc đa phần này khi họ muốn được coi là một hội đồng link ngặt nghèo và có tương quan .
Dù những cuộc đàm đạo Track II nhiều lúc được nêu ra như những ví dụ về sự tương quan của xã hội dân sự trong quy trình đưa ra quyết định hành động cấp vùng của những cơ quan chính phủ và những bên thứ hai khác, những tổ chức triển khai phi chính phủ hiếm khi tiếp cận được với nó, tuy nhiên những người tham gia từ những hội đồng hàn lâm là một nhóm 12 cố vấn. Tuy nhiên, những cố vấn này, trong hầu hết những trường hợp, có liên kết ngặt nghèo với những cơ quan chính phủ của họ, và sự nhờ vào vào nguồn kinh tế tài chính của cơ quan chính phủ cho những hoạt động giải trí hàn lâm và tương quan tới chủ trương đó, và nhiều việc làm trong Track II đã từng có thưởng thức quy trình quan liêu. [ 34 ] Những gợi ý của họ, đặc biệt quan trọng trong việc hội nhập kinh tế tài chính, thường thân thiện với những quyết định hành động của ASEAN hơn là lập trường của phần còn lại của xã hội dân sự .Track hoạt động giải trí như một forum cho xã hội dân sự ở Khu vực Đông Nam Á được gọi là Track III. Những người tham gia Track III nói chung là những nhóm dân sự xã hội đại diện thay mặt cho một ý tưởng sáng tạo hay nhóm riêng không liên quan gì đến nhau. [ 34 ] Các mạng lưới của Track III công bố đại diện thay mặt cho những hội đồng và những người phần nhiều ở bên ngoài những TT quyền lực tối cao chính trị và không có năng lực thực thi đổi khác hữu dụng mà không có sự tương hỗ từ bên ngoài. Track này tìm cách gây ảnh hưởng tác động trực tiếp tới những chủ trương của cơ quan chính phủ bằng cách lobby, tạo áp lực đè nén qua truyền thông online. Những người tham gia Track III cũng tổ chức triển khai và / hay tham gia những cuộc họp cũng như những hội nghị để tiếp cận với những quan chức của Track I .Xem xét ba Track, rõ ràng cho tới hiện tại, ASEAN đã được quản lý bởi những quan chức chính phủ nước nhà, những người khi mà những yếu tố ASEAN, Tiến sĩ Susilo Bambang Yudhoyono đã thừa nhận :” Tất cả những quyết định hành động về những hiệp ước, và khu vực tự do thương mại, về những công bố và những kế hoạch hành vi, đều do những Lãnh đạo cơ quan chính phủ, những bộ trưởng liên nghành và quan chức hạng sang thực thi. Và thực tiễn rằng trong phần đông đại chúng, có ít sự hiểu biết, chưa nói tới sự nhìn nhận, về những sáng tạo độc đáo lớn mà ASEAN đang thực thi thay mặt đại diện cho họ. ” [ 35 ]

Các cuộc họp[sửa|sửa mã nguồn]

Hội nghị cấp cao ASEAN[sửa|sửa mã nguồn]

Một biểu ngữ chào mừng Hội nghị cấp cao ASEAN 2011 tại JakartaTổ chức này tổ chức triển khai những cuộc họp, được gọi là Hội nghị cấp cao ASEAN, nơi những nguyên thủ vương quốc của mỗi thành viên gặp mặt để bàn luận và xử lý những yếu tố khu vực, cũng như để tổ chức triển khai những cuộc hội họp khác với những nước bên ngoài khối với mục tiêu thôi thúc quan hệ bên ngoài .Hội nghị cấp cao Chính thức những nhà Lãnh đạo ASEAN được tổ chức triển khai lần đầu tại Bali, Indonesia năm 1976. Cuộc họp thứ ba được tổ chức triển khai tại Manila năm 1987 và trong cuộc họp này, những chỉ huy đã quyết định hành động sẽ gặp nhau năm năm một lần. [ 36 ] Sau đó, hội nghị cấp cao thứ tư được tổ chức triển khai tại Nước Singapore năm 1992 nơi những nhà chỉ huy lại chấp thuận đồng ý sẽ gặp gỡ tiếp tục hơn, quyết định hành động tổ chức triển khai hội nghị cấp cao ba năm một lần. [ 36 ] Năm 2001, họ quyết định hành động gặp nhau hàng năm để xử lý những yếu tố cấp bách tác động ảnh hưởng tới khu vực. Các vương quốc thành viên được sắp xếp đứng ra tổ chức triển khai hội nghị cấp cao theo tên nước trong bảng vần âm ngoại trừ Myanmar vốn đã từ bỏ quyền đăng cai hội nghị năm 2006 của mình vào năm 2004 vì áp lực đè nén từ Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu. [ 37 ]Tới tháng 12 năm 2008, Hiến chương ASEAN khởi đầu có hiệu lực thực thi hiện hành và cùng với nó, Hội nghị cấp cao ASEAN sẽ được tổ chức triển khai 2 lần / năm .Cuộc họp cấp cao chính thức diễn ra trong ba ngày. Chương trình nghị sự như sau :

  • Lãnh đạo các quốc gia thành viên sẽ tổ chức một cuộc họp nội bộ tổ chức.
  • Lãnh đạo các quốc gia thành viên sẽ tổ chức một hội thảo cùng với các ngoại trưởng của Diễn đàn Khu vực ASEAN.
  • Một cuộc họp, được gọi là ASEAN+3, được tổ chức cho các lãnh đạo của ba Đối tác Đối thoại (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc)
  • Một cuộc họp riêng rẽ, được gọi là ASEAN-CER, được tổ chức cho các lãnh đạo của hai Đối tác Đối thoại khác (Úc, New Zealand).[cần dẫn nguồn]

Hội nghị cấp cao ASEAN được tổ chức triển khai luân phiên giữa những vương quốc thành viên, và vương quốc nào tổ chức triển khai thường kiêm luôn chức quản trị luân phiên ASEAN, thường là vị tổng thống hay thủ tướng vương quốc đó .
Trong cuộc họp cấp cao thứ năm tại Bangkok, những chỉ huy đã quyết định hành động gặp gỡ ” không chính thức ” với nhau trong mỗi hội nghị chính thức : [ 36 ]

Hội nghị cấp cao Không Chính thức ASEAN

Ngày
Quốc gia
Chủ nhà

1
30/11/1996
 Indonesia
Jakarta

2
14‒16/12/1997
 Malaysia
Kuala Lumpur

3
27‒28/11/1999
 Philippines
Manila

4
22‒25/11/2000
 Singapore
Singapore

Hội nghị cấp cao Đông Á[sửa|sửa mã nguồn]

 ASEAN

 ASEAN+3

 

 Các thành viên khác

 Quan sát viên

Các bên tham gia Hội nghị cấp cao Đông Á :Hội nghị cấp cao Đông Á hay Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á ( EAS ) là một forum liên châu Á được những chỉ huy 16 vương quốc Đông Á và khu vực tổ chức triển khai hàng năm, với ASEAN có một lập trường chỉ huy chung. Hội nghị cấp cao luận bàn những yếu tố gồm thương mại, nguồn năng lượng và bảo mật an ninh và hội nghị cấp cao có một vai trò trong việc thiết kế xây dựng hội đồng vùng .Các thành viên của hội nghị gồm 10 vương quốc thành viên ASEAN cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Nước Hàn, Ấn Độ, Úc và New Zealand tổng số chiếm tới gần 50% dân số quốc tế. Nga cũng đã xin gia nhập làm thành viên cuộc họp cấp cao vào năm 2005 là một khách mời cho EAS Đầu tiên theo lời mời của nước chủ nhà – Malaysia. [ 38 ]Hội nghị cấp cao tiên phong được tổ chức triển khai tại Kuala Lumpur ngày 14 tháng 12 năm 2005 và những cuộc họp sau đó được tổ chức triển khai sau cuộc gặp gỡ hàng năm của những chỉ huy ASEAN .

Hội nghị Thượng đỉnh kỷ niệm[sửa|sửa mã nguồn]

Một hội nghị thượng đỉnh kỷ niệm là một hội nghị do một vương quốc không thuộc ASEAN tổ chức triển khai để ghi lại một dịp kỷ niệm ngày thiết lập quan hệ giữa ASEAN và vương quốc tổ chức triển khai. Quốc gia tổ chức triển khai mời những chỉ huy chính phủ nước nhà những vương quốc thành viên ASEAN tới để đàm đạo tương lai của việc hợp tác và đối tác chiến lược .

Diễn đàn Khu vực[sửa|sửa mã nguồn]

Diễn đàn Khu vực ASEAN ( ARF ) là một cuộc đối thoại chính thức, đa bên trong vùng châu Á ‒ Thái Bình Dương. Tới thời gian tháng 7 năm 2007, nó gồm 27 bên tham gia. Các tiềm năng của ARF là khuyến khích đối thoại và tham vấn, và thôi thúc thiết kế xây dựng lòng tin và chủ trương ngoại giao ngăn ngừa trong khu vực. [ 42 ] ARF được tổ chức triển khai lần đầu năm 1994. Các bên tham gia ARF hiện tại như sau : hàng loạt thành viên ASEAN, Úc, Bangladesh, Canada, Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc, Liên minh châu Âu, Ấn Độ, Nhật Bản, Bắc Triều Tiên, Nước Hàn, Mông Cổ, New Zealand, Pakistan, Papua New Guinea, Nga, Đông Timor, Hoa Kỳ và Sri Lanka. [ 43 ] Trung Hoa Dân Quốc ( cũng gọi là Đài Loan ) đã bị trục xuất từ khi ARF xây dựng, và những yếu tố về Eo biển Đài Loan không được tranh luận tại những cuộc họp của ARF cũng như được đề cập tới trong Tuyên bố của quản trị ARF .

Các cuộc gặp khác[sửa|sửa mã nguồn]

Ngoài những cuộc họp ở trên, những cuộc họp tiếp tục khác [ 44 ] cũng được tổ chức triển khai. [ 45 ] Chúng gồm có Cuộc họp Bộ trưởng ASEAN Thường niên [ 46 ] cũng như những uỷ ban nhỏ hơn khác, như Trung tâm Phát triển Nghề cá Khu vực Đông Nam Á. [ 47 ] Các cuộc họp tập trung chuyên sâu vào những chủ đề riêng không liên quan gì đến nhau, như quốc phòng [ 44 ] hay môi trường tự nhiên, [ 44 ] [ 48 ] và do những Bộ trưởng, thay vì những nguyên thủ vương quốc tham gia .
ASEAN + 3 là một cuộc họp giữa ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản và Nước Hàn, và hầu hết được tổ chức triển khai trong mỗi kỳ họp cấp cao ASEAN .

Diễn đàn Hợp tác Á – Âu[sửa|sửa mã nguồn]

Diễn đàn Hợp tác Á-Âu ( ASEM ) là một quy trình đối thoại không chính thức được đưa ra sáng tạo độc đáo năm 1996 với tiềm năng tăng cường hợp tác giữa những vương quốc châu Á và châu Âu, đặc biệt quan trọng giữa những thành viên Liên minh châu Âu và ASEAN. [ 49 ] ASEAN, được đại diện thay mặt bởi vị Tổng thư ký của mình, là một trong 45 đối tác chiến lược ASEM. Họ cũng chỉ định một đại diện thay mặt trong ban quản trị Quỹ Á-Âu ( ASEF ), một tổ chức triển khai văn hoá xã hội gắn liền với cuộc Gặp gỡ .

Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN – Nga[sửa|sửa mã nguồn]

Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN-Nga là một cuộc gặp gỡ hàng năm giữa những chỉ huy những vương quốc thành viên và Tổng thống Nga .

Ba trụ cột Cộng đồng ASEAN[sửa|sửa mã nguồn]

Cộng đồng Kinh tế ASEAN ( AEC )[sửa|sửa mã nguồn]

ASEAN đã nhấn mạnh vấn đề trên việc hợp tác khu vực trong ” ba trụ cột ” về bảo mật an ninh, văn hoá xã hội và hội nhập kinh tế tài chính. [ 50 ] Các nhóm khu vực đã có những thành quả lớn nhất trong hội nhập kinh tế tài chính, với tiềm năng tạo lập một Cộng đồng Kinh tế ASEAN ( AEC ) vào năm năm ngoái. [ 51 ]

Khu vực Tự do Thương mại[sửa|sửa mã nguồn]

Nền tảng của AEC là Khu vực Tự do Thương mại ASEAN ( AFTA ), một kế hoạch thuế xuất khuyến mại bên ngoài chung để khuyến khích dòng chảy tự do của hàng hoá bên trong ASEAN. [ 51 ] Khu vực Tự do Thương mại ASEAN ( AFTA ) là một thoả thuận của những vương quốc thành viên ASEAN tương quan tới sản xuất địa phương tại mọi vương quốc ASEAN. Thoả thuận AFTA được ký ngày 28 tháng 1 năm 1992 tại Nước Singapore. [ 52 ] Khi thoả thuận AFTA được ký lần tiên phong, ASEAN có sáu thành viên là Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Nước Singapore và xứ sở của những nụ cười thân thiện. Nước Ta gia nhập năm 1995, Lào và Myanmar năm 1997, và Campuchia năm 1999. Những thành viên gia nhập sau vẫn chưa cung ứng không thiếu những pháp luật của AFTA, nhưng họ đã chính thức được coi là một phần của AFTA khi họ bị nhu yếu ký thoả thuận này khi gia nhập vào ASEAN, và được trao những khung thời hạn dài hơn để đạt tới những lao lý về miễn giảm thuế của AFTA. [ 53 ]

Khu vực Đầu tư Toàn diện[sửa|sửa mã nguồn]

Khu vực Đầu tư Toàn diện ASEAN ( ACIA ) sẽ khuyến khích dòng chảy tự do của góp vốn đầu tư bên trong ASEAN. Các nguyên tắc chính của ACIA như sau [ 54 ]

  • Mọi ngành công nghiệp đều phải được mở cửa cho đầu tư, ngoại trừ những ngành sẽ từ từ bị loại bỏ theo lộ trình
  • Quy tắc đối xử quốc gia được trao ngay lập tức cho các nhà đầu tư ASEAN với ít ngoại lệ
  • Hạn chế ngăn trở đầu tư
  • Hợp lý hoá quá trình và các thủ tục đầu tư.
  • Tăng cường minh bạch
  • Tiến hành các biện pháp khuyến khích đầu tư

Việc thực thi vừa đủ ACIA với việc vô hiệu những list ngoại lệ hiện tại trong chế biến nông nghiệp, đánh cá, lâm nghiệp và khai thác mỏ được pháp luật vào năm 2010 cho hầu hết thành viên ASEAN và năm năm ngoái cho Campuchia, Lào, Myanmar và Nước Ta. [ 54 ]

Thương mại trong Dịch Vụ Thương Mại[sửa|sửa mã nguồn]

Một Thoả thuận Khung của ASEAN về Thương mại trong Thương Mại Dịch Vụ được trải qua tại Hội nghị cấp cao ASEAN tại Bangkok tháng 12 năm 1995. [ 55 ] Theo AFAS, những vương quốc thành viên ASEAN tham gia vào những vòng đàm phán tự do hoá thương mại trong dịch vụ liên tục này với tiềm năng ngày càng tạo ra những cam kết Lever cao hơn. Các cuộc đàm phán đã dẫn tới những cam kết đặt ra những lộ trình cho những cam kết đơn cử là một bộ phận của Thoả thuận Khung. Các lộ trình thường được gọi là những gói cam kết dịch vụ. Hiện tại, ASEAN đã ký kết bảy gói cam kết theo AFAS. [ 56 ]

Thị phần hàng không duy nhất[sửa|sửa mã nguồn]

Thị phần Hàng không Duy nhất ASEAN ( SAM ), do Nhóm Làm việc Vận tải Hàng không ASEAN đệ trình, được Cuộc họp những Quan chức Vận tải Cao cấp ASEAN ủng hộ, và được những Bộ trưởng Vận tải ASEAN xác nhận, sẽ đưa ra một thoả thuận khung trời mở cho khu vực vào năm năm ngoái. [ 57 ] ASEAN SAM được mong đợi sẽ trọn vẹn tự do hoá đi lại bằng đường hàng không giữa những vương quốc thành viên, được cho phép ASEAN được hưởng quyền lợi trực tiếp từ sự tăng trưởng giao thông vận tải đường không trên quốc tế, và cũng tự do hoá cho những dòng chảy du lịch, thương mại, góp vốn đầu tư và dịch vụ giữa những vương quốc thành viên. [ 57 ] [ 58 ] Bắt đầu từ ngày 1 tháng 12 năm 2008, những hạn chế trên những quyền tự do hàng không thứ ba và thứ tư giữa những thành phố Thành Phố Hà Nội của những vương quốc thành viên về dịch vụ chở khách đường không sẽ bị xoá bỏ, [ 59 ] trong khi đó từ ngày 1 tháng 1 năm 2009, sẽ có sự tự do hoá trọn vẹn trong việc chuyên chở hàng hoá bằng hàng không trong khu vực [ 57 ] [ 58 ] Tới ngày 1 tháng 1 năm 2011, quyền tự do lưu thông thứ năm giữa mọi thành phố TP. hà Nội sẽ được tự do hoá. [ 60 ]

Các thoả thuận tự do thương mại với những vương quốc khác[sửa|sửa mã nguồn]

ASEAN đã ký kết những thoả thuận tự do thương mại với Trung Quốc, Nước Hàn, Nhật Bản, Úc, New Zealand và gần đây nhất là Ấn Độ. [ 61 ] Ngoài ra, lúc bấy giờ tổ chức triển khai này đang đàm phán thoả thuận tự do thương mại với Liên minh châu Âu. [ 62 ] Đài Loan cũng đã biểu lộ sự chăm sóc tới một thoả thuận với ASEAN nhưng cần vượt qua những trở ngại về ngoại giao từ Trung Quốc. [ 63 ]

Cộng đồng An ninh – Chính trị ASEAN ( APSC )[sửa|sửa mã nguồn]

Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN ( ASCC )[sửa|sửa mã nguồn]

Hiến chương Asean[sửa|sửa mã nguồn]

Ngày 15 tháng 12 năm 2008 những thành viên ASEAN gặp gỡ tại thủ đô hà nội Jakarta của Indonesia để đưa ra một hiến chương, được ký kết tháng 11 năm 2007, với tiềm năng tiến gần hơn tới ” một hội đồng kiểu Liên minh châu Âu “. [ 64 ] Hiến chương biến ASEAN thành một thực thể pháp lý và những tiềm năng tạo lập một khu vực tự do thương mại duy nhất cho khu vực gồm 500 triệu dân. Tổng thống Indonesia Susilo Bambang Yudhoyono đã nói rằng ” Đây là một sự tăng trưởng quan trọng khi ASEAN đang đoàn kết, hội nhập và biến mình thành một hội đồng. Nó đã được hoàn thành xong khi ASEAN tìm kiếm một vai trò tích cực hơn trong những yếu tố châu Á và quốc tế ở thời gian khi mạng lưới hệ thống quốc tế đang trải qua một sự đổi khác chấn động ” ông thêm, đề cập tới sự đổi khác khi hậu và di dời kinh tế tài chính. ” Khu vực Đông Nam Á không còn là một vùng bị chia rẽ, bị cuộc chiến tranh tàn phá như trong thập niên 1960 và 1970 “. Các nguyên tắc nền tảng gồm có :

  • a) Tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng sự toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc quốc gia của mọi quốc gia thành viên ASEAN;
  • b) Có chung cam kết và trách nhiệm trong việc tăng cường hoà bình khu vực, an ninh và thịnh vượng;
  • c) Bác bỏ sự gây hấn và đe dọa sử dụng vũ lực hay các hành động khác theo bất kỳ cách nào không thích hợp với luật pháp quốc tế;
  • d) Dựa trên sự giải quyết hoà bình các tranh chấp;
  • e) Không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia thành viên ASEAN;
  • f) Tôn trọng quyền của mọi Quốc gia bảo đảm sự tồn tại của mình và không bị sự can thiệp, lật đổ hay ép buộc từ bên ngoài;
  • g) Tăng cường tham vấn về những vấn đề ảnh hưởng nghiêm trọng tới lợi ích chung của ASEAN;
  • h) Trung thành với sự cai trị của pháp luật, quản lý tốt, các nguyên tắc dân chủ và định chế chính phủ;
  • i) Tôn trọng các quyền tự do nền tảng, khuyến khích và bảo vệ nhân quyền, và khuyến khích công bằng xã hội;
  • j) Tán thành Hiến chương Liên hiệp quốc và luật pháp quốc tế, gồm cả luật nhân đạo quốc tế, đã được tán thành bởi các quốc gia thành viên ASEAN;
  • k) Tránh tham gia vào bất kỳ chính sách hay hoạt động nào, gồm cả việc sử dụng lãnh thổ của mình, được theo đuổi bởi một quốc gia thành viên hay không phải là thành viên của ASEAN hay bất kỳ một bên phi quốc gia nào, đe doạ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hay sự ổn định kinh tế chính trị của các quốc gia thành viên ASEAN;
  • l) Tôn trọng những sự khác biệt văn hoá, ngôn ngữ và tôn giáo của người dân ASEAN, trong khi nhấn mạnh những giá trị chung theo tin thần thống nhất trong đa dạng;
  • m) Thúc đẩy hình thành một ASEAN hướng về nhân dân, trong đó khuyến khích mọi thành phần xã hội tham gia và hưởng lợi từ tiến trình liên kết và xây dựng cộng đồng ASEAN;
  • n) Tôn trọng các quy định thương mại đa bên và các quy định của ASEAN dựa trên các chế độ cho sự áp dụng hiệu quả các cam kết kinh tế và dần giảm bớt hướng tới loại bỏ tất cả các rào cản với sự hội nhập kinh tế của khu vực, trong một nền kinh tế định hướng thị trường”.[65]

Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng cục bộ kinh tế tài chính quốc tế đang diễn ra đã được coi như một mối đe doạ với những tiềm năng của bản hiến chương, [ 66 ] và cũng đặt ra ý tưởng sáng tạo về một cơ cấu tổ chức nhân quyền sẽ được đàm phán trong cuộc hội nghị cấp cao sắp tới vào tháng 2 năm 2009. Đề xuất này đã gây ra tranh cãi, bởi cơ quan này sẽ không có quyền áp đặt cấm vận hay trừng phạt những vương quốc vi phạm vào quyền của công dân nước mình và cho nên vì thế sẽ không có nhiều hiệu suất cao. [ 67 ]

Các hoạt động giải trí văn hoá[sửa|sửa mã nguồn]

ASEAN có tổ chức triển khai những hoạt động giải trí văn hoá trong một nỗ lực nhằm mục đích hội nhập hơn nữa cho khu vực. Chúng gồm những hoạt động giải trí thể thao và giáo dục cũng như những phần thưởng văn chương. Các ví dụ gồm Mạng lưới Trường ĐH ASEAN, Trung tâm Đa dạng sinh học ASEAN, Trao Giải Nhà khoa học và Nhà kỹ thuật Xuất sắc ASEAN, cuộc thi hoa khôi Kinh đô Asean 2020 và Học bổng ASEAN do Nước Singapore hỗ trợ vốn .
Trao Giải Văn học Khu vực Đông Nam Á ( S.E.A. Write Award ) là một phần thưởng văn học được trao hàng năm cho những nhà văn và nhà thơ Khu vực Đông Nam Á từ năm 1979. Trao Giải này hoặc được trao cho một tác phẩm riêng không liên quan gì đến nhau hay như một sự công nhận với thành tựu cả đời của một nhà văn. Các tác phẩm được trao giải rất phong phú và gồm cả thi ca, truyện ngắn, tiểu thuyết, ngữ cảnh sân khấu, dân gian cũng như những tác phẩm hàn lâm và tôn giáo. Các buổi lễ được tổ chức triển khai tại Bangkok và được chủ trì bởi một thành viên của mái ấm gia đình hoàng gia Xứ sở nụ cười Thái Lan .
ASAIHL hay Thương Hội những Định chế Cao học Khu vực Đông Nam Á là một tổ chức triển khai phi chính phủ được xây dựng năm 1956 với tiềm năng tăng cường những định chế cao học, đặc biệt quan trọng trong giảng dạy, điều tra và nghiên cứu, và dịch vụ công, với tham vọng tạo ra một truyền thống khu vực và sự nhờ vào lẫn nhau .

Các di sản vườn vương quốc[sửa|sửa mã nguồn]

Các Vườn quốc gia Di sản ASEAN [ 68 ] là một list những vườn vương quốc được đưa ra năm 1984 và được sửa đổi năm 2004. Nó có mục tiêu bảo vệ những tài nguyên tự nhiên trong khu vực. Hiện có 35 khu vực như vậy đang được bảo tồn, gồm Vườn Đá ngầm Biển Tubbataha và Vườn Quốc gia Kinabalu. [ 69 ]
Học bổng ASEAN là một chương trình học bổng của Nước Singapore dành cho 9 vương quốc thành viên khác về giáo dục cấp ba, cao đẳng và ĐH. Nó gồm có nơi ăn ở, những quyền lợi y tế và bảo hiểm, phí học tập và phí thi tuyển. [ 70 ]

Mạng lưới ĐH[sửa|sửa mã nguồn]

Mạng lưới Đại học ASEAN ( AUN ) là một tập hợp những trường ĐH Khu vực Đông Nam Á. Ban đầu nó được 11 trường ĐH bên trong những vương quốc thành viên xây dựng tháng 11 năm 1995. [ 71 ] Hiện tại AUN gồm 21 trường ĐH tham gia. [ 72 ]

Bài ca chính thức[sửa|sửa mã nguồn]

Đại hội Thể thao Đông Nam Á (tiếng Anh: Southeast Asian Games), thường được gọi là SEA Games, là một sự kiện thể thao được tổ chức hai năm một lần với các vận động viên từ 11 quốc gia Đông Nam Á tham gia. Sự kiện này nằm dưới sự quản lý của Liên đoàn đại hội thể thao Đông Nam Á và dưới sự giám sát của Ủy ban Olympic Quốc tế (IOC) và Hội đồng Olympic châu Á.

ASEAN Para Games[sửa|sửa mã nguồn]

Đại hội Thể thao Người khuyết tật Đông Nam Á (tiếng Anh: ASEAN Para Games) là một sự kiện thể thao được tổ chức hai năm một lần sau mỗi kỳ SEA Games dành cho các vận động viên khuyết tật. Sự kiện này được các vận động viên của cả 11 quốc gia Đông Nam Á tham gia. ASEAN Para Games được tổ chức theo mô hình Paralympic Games, và dành cho các vận động viên khuyết tật về thể hình như khả năng vận động, khuyết tật thị giác, người mất chân tay và những người liệt não.

FESPIC Games, cũng được gọi là Far East and South Pacific Games cho những người khuyết tật, là sự kiện thể thao lớn nhất ở vùng châu Á và Nam Thái Bình Dương. FESPIC Games đã được tổ chức triển khai 9 lần và đã gặt hái thành công xuất sắc [ 73 ] vào tháng 12 năm 2006 tại FESPIC Games lần thứ 9 ở Kuala Lumpur, Malaysia. Sự kiện này đã có tên Đại hội Thể thao Người khuyết tật châu Á 2010 và được tổ chức triển khai tại Quảng Châu Trung Quốc, CHND Nước Trung Hoa. Asian Para Games 2010 đã mở màn ngay sau khi Đại hội Thể thao châu Á 2010 kết thúc, sử dụng luôn những cơ sở và thiết bị đã được quy đổi tương thích với người khuyết tật. Lễ khai mạc Asian Para Games, sự kiện song song cho những vận động viên khuyết tật sức khỏe thể chất, là một sự kiện thể thao được tổ chức triển khai bốn năm một lần sau Asiad .

Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á (tiếng Anh: AFF Championship) là một sự kiện bóng đá được tổ chức hai năm một lần bởi Liên đoàn bóng đá Đông Nam Á, được FIFA công nhận và với sự tham gia của các đội tuyển quốc gia Đông Nam Á. Nó được khai trương năm 1996 với tên gọi Tiger Cup, nhưng sau khi Asia Pacific Breweries ngừng hợp đồng tài trợ, “Tiger” được đổi thành “ASEAN”.

Các vương quốc phương Tây đã chỉ trích ASEAN về cách tiếp cận quá mềm dẻo của họ trong việc khuyến khích dân chủ và nhân quyền ở Myanmar do một hội đồng quân sự chiến lược điều hành quản lý. [ 74 ] Dù có những lời lên án của quốc tế về vụ chính phủ nước nhà sử dụng vũ lực đàn áp những người biểu tình hoà bình tại Yangon, ASEAN đã phủ nhận ngừng quy định thành viên của Myanmar và cũng bác bỏ những đề xuất kiến nghị vận dụng trừng phạt kinh tế tài chính. [ 75 ] Điều này đã gây nên những lo lắng khi Liên minh châu Âu, một đối tác chiến lược thương mại tiềm năng, đã phủ nhận triển khai những cuộc đàm phán tự do thương mại ở cấp vùng vì những nguyên do chính trị đó. [ 76 ] Các nhà quan sát quốc tế coi tổ chức triển khai như một ” nơi hội họp “, [ 77 ] ý niệm rằng tổ chức triển khai này chỉ ” mạnh miệng lên án mà ít hành vi “. [ 78 ]Tại cuộc họp Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 12 ở Cebu, nhiều nhóm hoạt động giải trí đã tổ chức triển khai những cuộc tuần hành phản đối toàn cầu hoá và chống Arroyo. [ 79 ] Theo những nhà hoạt động giải trí, lộ trình hội nhập kinh tế tài chính sẽ có tác động ảnh hưởng xấu tới những ngành công nghiệp của Philippines và sẽ khiến hàng nghìn người Philippines mất việc. [ 80 ] Họ cũng coi tổ chức triển khai như một tổ chức triển khai đế quốc rình rập đe dọa tới chủ quyền lãnh thổ vương quốc. [ 80 ] Một luật sư nhân quyền từ New Zealand cũng đã đệ trình bản phản đối về tình hình nhân quyền trong vùng nói chung. [ 81 ]

ASEAN đã đồng ý về một cơ quan nhân quyền ASEAN sẽ bắt đầu hoạt động từ năm 2009. Philippines, Malaysia, Indonesia và Thái Lan muốn cơ quan này có khả năng áp đặt, tuy nhiên Singapore, Việt Nam, Myanmar, Lào và Campuchia không muốn như vậy.[cần dẫn nguồn]

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Các hội nghị cấp cao[sửa|sửa mã nguồn]

Các tổ chức triển khai của ASEAN[sửa|sửa mã nguồn]

Rate this post