Gia đình Hồ Chí Minh – Wikipedia tiếng Việt

Hồ Chí Minh, tên thật là Nguyễn Sinh Cung, vị chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), sinh ra trong một gia đình nhà Nho ở làng Sen (hay làng Kim Liên), xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc

Xem thêm: Khu di tích lịch sử Kim Liên

Nguyễn Sinh Sắc[sửa|sửa mã nguồn]

Nguyễn Sinh Sắc (còn gọi là Nguyễn Sinh Huy, người dân còn gọi là Cụ Phó bảng; 1862 – 1929)[1] là cha của Hồ Chí Minh. Ông là con của ông Nguyễn Sinh Nhậm và bà Hà Thị Hy. Lớn lên trong một môi trường Nho học dưới sự nuôi dạy của nhà Nho và cha vợ của mình là cụ Hoàng Xuân Đường, ông đỗ cử nhân năm 1894 và Phó bảng năm 1901. Năm 1906, ông được triều đình bổ nhiệm chức Thừa biện bộ Lễ;[3] năm 1909, ông nhậm chức Tri huyện Bình Khê tỉnh Bình Định.[4] Làm quan được ít lâu thì bị triều đình thải hồi vì một “tên cường hào” bị ông bắt giam rồi được thả.[6] Sau đó ông đi vào miền Nam và sinh sống tại Làng Hòa An, Cao Lãnh, Đồng Tháp (nay là xã Hòa An, thành phố Cao Lãnh) cho đến cuối đời.[7]

Hoàng Thị Loan[sửa|sửa mã nguồn]

Chân dung bà Hoàng Thị Loan

Hoàng Thị Loan (1868-1901) là thân mẫu của Hồ Chí Minh. Bà là con gái của cụ Hoàng Xuân Đường, được ông gả vào năm 15 tuổi. Sau khi chồng bà là ông Nguyễn Sinh Sắc đi thi ở Huế, vì túng thiếu tiền bạc nên ngỏ ý mời bà lên kinh giúp ông học tập, bà đã gửi con gái đầu lòng của mình lại Nghệ An, rồi đưa hai con trai là Nguyễn Sinh Khiêm (7 tuổi) và Nguyễn Sinh Cung (5 tuổi) cùng chồng vào Huế. Ở đây, bà làm nghề dệt vải để trang trải cuộc sống vật chất cho gia đình.

Năm 1900, sau khi sinh người con thứ tư là Nguyễn Sinh Nhuận cộng với sự khó khăn vất vả khó nhọc trước đó, Hoàng Thị Loan sinh bệnh rồi qua đời vào ngày 10 tháng 2 năm 1901, là ngày 22 tháng Chạp năm Canh Tý. Lúc ấy, chồng và con cả của bà đang ở Thanh Hóa, chỉ có cậu Nguyễn Tất Thành 11 tuổi ( là Hồ Chí Minh sau này ) đứng ra làm chủ tang cùng bà con chôn cất mẹ khi ngày Tết đang đến gần. Năm 1922, tro cốt của bà được trưởng nữ Nguyễn Thị Thanh đưa về an táng tại vườn nhà mình ở Làng Sen, Kim Liên. Năm 1942, cải táng tại núi Động Tranh thấp, thuộc dãy núi Đại Huệ. Năm 1985, nhân dân và chính quyền sở tại địa phương kiến thiết xây dựng tại đây một khu lăng mộ dành cho bà [ 8 ] .Trước phần mộ xuống sân bia có 33 bậc, ứng với số lượng 33 là tuổi đời của bà. Hai cụm cây hoa giấy che mát phần mộ được lấy giống từ Huế – nơi bà mất và khu lăng mộ của ông Nguyễn Sinh Sắc ở Đồng Tháp. Phần trên mộ được thiết kế xây dựng theo hình khung cửi cách điệu để diễn đạt công lao dệt vải nuôi chồng con của bà .

Các anh chị em[sửa|sửa mã nguồn]

Nguyễn Thị Thanh[sửa|sửa mã nguồn]

Chân dung bà Nguyễn Thị Thanh

Nguyễn Thị Thanh (1884–1954) là người chị cả, có hiệu khác là Bạch Liên nữ sĩ, bà hoạt động tích cực chống Pháp dưới ngọn cờ yêu nước của chí sĩ Phan Bội Châu. Năm 1918, bà Nguyễn Thị Thanh phối hợp với Nguyễn Kiên tổ chức lấy trộm súng trong doanh trại lính khố xanh đóng tại thành phố Vinh. Bị phát giác nên Nguyễn Thị Thanh bị bắt và nhốt vào nhà tù tra tấn dã man. Vào năm 1918, thực dân Pháp chỉ thị cho quan lại địa phương mở phiên tòa số 80 xử phạt bà Nguyễn Thị Thanh 100 trượng và 9 năm khổ sai. Ngày 2 tháng 12 năm 1918, Nguyễn Thị Thanh bị đày vào giam tại nhà lao Quảng Ngãi. Án sát tỉnh Quảng Ngãi lúc đó là Phạm Bá Phổ có người vợ bị bệnh đau ở vú không cho con bú được dù đã được cố gắng cứu chữa. Thương người phụ nữ bị bệnh, bà Nguyễn Thị Thanh đã chữa cho, ít ngày sau bệnh khỏi, dòng sữa con bú được phục hồi. Chính điều này đã làm Phạm Bá Phổ rất nể bà.[9]

Theo lời kể của nhà văn Sơn Tùng, bà Thanh nói nguyên do tại sao bà không lập mái ấm gia đình [ 10 ] :

O đã già, không dễ gì ngồi nói lại những chuyện này với một người trẻ tuổi như cháu. Nhưng biết cháu là một người có thể thấu hiểu thì O mới nói- Cũng như cậu Khiêm, O cũng bị kẻ thù tra tấn dã man. Cháu có tưởng tượng được không? Chúng nung đỏ chiếc mâm đồng… Một chiếc mâm đồng nung đỏ mà chúng bắt O ngồi lên đó… Một nỗi đau đớn đến tận cùng xuyên sâu từ da thịt vào xương tủy… Nhiều ngày sau đó O không đi lại được… Vết bỏng đã làm biến dạng cả cơ thể, xoắn vặn cả tâm hồn O. Vậy thì, làm sao O có thể có gia đình được nữa…

Thấy cô Thanh là người vừa xinh đẹp lại vừa mưu trí, Phổ muốn đưa về nhà riêng làm hành dịch và dạy học cho con cháu. Dù quy định của thực dân Pháp và triều đình Huế cấm việc đó, nhưng người anh kết nghĩa của Phạm Bá Phổ là Xô đứng đầu mật thám Trung Kì đã được cho phép Phổ đưa cô Thanh từ nhà tù về ở trong nhà Phạm Bá Phổ. [ 11 ]Vào năm 1922, Phạm Bá Phổ được triều đình Huế thăng cho làm Tham tri Bộ Hình. Bà Nguyễn Thị Thanh cũng đi theo. Ở đây, bà đã đem tro cốt của mẹ mình về cải táng tại Nghệ An [ 8 ] .

Nguyễn Sinh Khiêm[sửa|sửa mã nguồn]

Hình ông Cả Khiêm trên báo Nhân dân

Nguyễn Sinh Khiêm (1888–1950) là con thứ hai của trong gia đình cụ Phó bảng, sau chị cả Nguyễn Thị Thanh và là anh trai của Nguyễn Sinh Cung và Nguyễn Sinh Nhuận.

Ông còn được gọi là Cả Khiêm, tên tự là Tất Đạt. Thời thanh niên, ông tham gia các hoạt động yêu nước chống thực dân và phong kiến nên từng bị tù đày nhiều nǎm. Do hành nghề thầy thuốc và thầy địa lý, ông còn có biệt danh là “Thầy Nghệ”. Ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị Giáng (1897-1960) và có với nhau ba người con nhưng đều chết sớm. Người con duy nhất của hai người, con riêng của bà Giáng, là Hà Hữu Thừa, Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam.

Theo lời kể của bà Nguyễn Thị Chanh, em con chú ruột của bà Nguyễn Thị Cúc – vợ Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, chị dâu của bà vợ cựu Đại sứ Hà Văn Lâu và cũng là chị dâu của bà Nguyễn Thị Giáng ; [ 12 ] bà Nguyễn Thị Giáng là người làng Phú Lễ ( thuộc xã Quảng Phú, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên Huế ) nằm bên bờ bắc sông Bồ, cách phía đông chợ An Lỗ chừng 2 km, cách phía Bắc TT Huế 20 km. Bà Giáng đã có một đời chồng người họ Hà làng Phú Ốc. Không may chồng bà mất sớm, để lại cho bà một người con trai còn đi chập chững. Từ ngày chồng chết, bà Giáng hay đau ốm, thuốc thang mãi vẫn không khỏi. May được ông Cả Khiêm chữa cho lành bệnh. Bà gởi tiền thầy nhưng ông Cả không nhận .Sau ngày bà Giáng mãn tang chồng ( 1930 ), ông Cả Khiêm đến ăn ở với bà Giáng. Cậu bé con trai của bà là Hà Hữu Thừa được ông Cả yêu dấu dạy dỗ như con đẻ. Cuối năm 1933, bà Giáng có với ông một người con gái, được đặt tên là Nguyễn Thị Cao. Cao lên 3 tuổi thì mất vì bệnh .Năm 1937, bà Giáng sinh tiếp người con gái thứ hai Nguyễn Thị Ba. Đang ở Huế, được tin có cháu gọi bằng cô, bà Nguyễn Thị Thanh – chị ruột ông Cả, về Phú Lễ thăm và ở lại một thời hạn để chăm nom cháu. Đến đầu năm 1940, bé Ba mắc bệnh và qua đời. Ông Cả thương con muốn phát điên vì ông làm thầy thuốc mà không cứu được con. Tháng 2 năm 1940, ông tạm biệt bà Giáng về lại Nghệ An .

Về quê, ông cho rằng nơi táng mẹ ông trong vườn nhà ở Kim Liên không tốt nên ông cải táng lên núi Đại Huệ. Sau đó ông lên Vinh tổ chức diễn tuồng Trưng Nữ Vương do cụ Phan Bội Châu soạn, rồi lại mở lớp dạy võ cho thanh niên. Thực dân Pháp nghi ông tập hợp thanh niên để hoạt động chống Pháp nên đã bắt giam ông mấy tháng. Theo lời bà Thanh kể lại với nhà văn Sơn Tùng, ông Khiêm đã bị thực dân Pháp “triệt nòi giống bằng cách tiêm thuốc”[13].

Năm 1941, ông bị buộc phải trở lại Huế để Pháp dễ bề theo dõi ông .Năm 1943, bà Giáng lại sinh cho ông cậu con trai đặt tên là Nguyễn Tất Thông. Và cũng chỉ nuôi được 6 tháng rồi cậu bé cũng mất. Đau khổ vì chuyện mất con lần thứ ba, ông Cả lại bỏ nhà ra đi. Lần này ông ra Phong Điền với thầy Lê Văn Miến .Sau ngày Nhật thay máu chính quyền Pháp ( 9 tháng 3 năm 1945 ), lính Nhật rải ra đóng đồn giữ những cầu trên quốc lộ 1. Lính Nhật gác cầu An Lỗ hay về chợ Phú Lễ mua thực phẩm. Nhân đó, ông Cả Khiêm và ông Ấm Hoàng ( bác ruột của bà Nguyễn Thị Chanh ) hay bút đàm với người Nhật để khám phá tình hình cuộc chiến tranh giữa Nhật và Đồng Minh, đặc biệt quan trọng là với quân đội Liên Xô. Nhờ thế mà những ông sớm biết được tin Nhật đầu hàng quân đội Đồng Minh vào trung tuần tháng 8 năm 1945 .

Sau ngày 23 tháng 8 năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công ở Huế, ông mới biết được Chủ tịch Hồ Chí Minh – người lãnh đạo cách mạng thành công – chính là Nguyễn Ái Quốc em trai ông.

Đầu năm 1946, ông cùng Hà Hữu Thừa ( con trai của vợ ông ) và Nguyễn Hữu Tạo ( cháu ông Ấm Hoàng ) đi tàu hoả ra TP.HN thăm người em làm quản trị nước. Sau chuyến thăm viếng đó, ông cho hai người trẻ tuổi trở lại Huế ăn Tết Bính Tuất và tham gia công tác làm việc cách mạng, còn ông thì ghé về thăm quê. Không ngờ cuối năm 1946, toàn nước kháng chiến, ông không còn thời cơ để trở lại Phú Lễ với bà Giáng nữa. Ông qua đời tại Nghệ An vào ngày 9 tháng 11 năm 1950, chỉ gần 1 tháng sau thắng lợi Chiến dịch Biên giới, hưởng thọ 62 tuổi .

Nguyễn Sinh Nhuận[sửa|sửa mã nguồn]

Nguyễn Sinh Nhuận ( 1900 – 1901 ), hay tên khai sinh là Nguyễn Sinh Xin, là con trai út trong mái ấm gia đình, sau khi sinh ra, bà Hoàng Thị Loan bệnh nặng và qua đời. Nguyễn Sinh Xin được gửi về quê ngoại Hoàng Trù để chăm nom nhưng vì ốm yếu nên đã qua đời mấy tháng sau đó. [ 14 ] Do mất sớm nên tên tuổi của Nguyễn Sinh Xin không được nhắc đến nhiều như 3 anh chị khác trong mái ấm gia đình .

Nguyễn Sinh Nhậm[sửa|sửa mã nguồn]

Nguyễn Sinh Nhậm (1827–1870)[cần dẫn nguồn] là ông nội của Hồ Chí Minh.

Hà Thị Hy[sửa|sửa mã nguồn]

Hà Thị Hy là bà nội của Hồ Chí Minh.[15]. Cuộc đời bà gắn với một giai thoại được truyền tụng trong dân gian, bà cũng là đối tượng của một số nghiên cứu khoa học về nhân vật lịch sử[16]. Người dân còn gọi bà là Cô Đền.

Ban đầu, ông Nguyễn Sinh Khiêm đem cả tro cốt bà Hà Thị Hy và bà Hoàng Thị Loan lên táng gần nhau ở chân núi Động Tranh thấp. Về sau này, ông đã quyết định hành động để mộ bà Hy dưới chân núi và đem mộ mẹ lên táng ở vị trí lúc bấy giờ để hành khách đến viếng mộ bà Hoàng Thị Loan cũng sẽ viếng được mộ bà Hà Thị Hy trước [ 15 ] .

Hoàng Xuân Đường[sửa|sửa mã nguồn]

Hoàng Xuân Đường (sinh 1835 mất ngày 22 tháng 5 năm 1893), người làng Hoàng Trù, là ông ngoại của Hồ Chí Minh.

Nguyễn Thị Kép[sửa|sửa mã nguồn]

Nguyễn Thị Kép (mất ngày 13 tháng 4 năm 1904), người làng Hoàng Trù, là bà ngoại của Hồ Chí Minh.

Gia đình riêng[sửa|sửa mã nguồn]

Tăng Tuyết Minh . Minh Khai ( 1910 – 1941 )Theo điều tra và nghiên cứu của một số ít sử gia tại Hoa Kỳ, Pháp, và Trung Quốc, trong thời hạn ở Quảng Châu Trung Quốc, ông đã tổ chức triển khai hôn lễ với một thiếu nữ Trung Quốc tên là Tăng Tuyết Minh vào ngày 18 tháng 10 năm 1926 và sống với nhau cho đến khi ông rời Quảng Châu Trung Quốc, vào khoảng chừng tháng 4 hoặc 5 năm 1927, từ đó hai người không khi nào còn gặp lại nhau [ 17 ] [ 18 ]. Theo nhà ngoại giao Trung Quốc Lý Đồng Thành, sau khi trở thành quản trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh đã thử tìm Tăng Tuyết Minh trải qua tổ chức triển khai Đảng Cộng sản Trung Quốc và cơ quan ngoại giao Nước Ta tại Trung Quốc nhưng không thành công xuất sắc, và việc này cũng gặp sự phản đối của 1 số ít Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Lao động Nước Ta, đặc biệt quan trọng là Lê Duẩn với nguyên do Hồ Chí Minh được nhân dân xem là cha già dân tộc bản địa, nên việc đoàn viên với Tăng Tuyết Minh ( một phụ nữ Trung Quốc ) sẽ làm tác động ảnh hưởng đến hình tượng của ông và sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước. [ 19 ] Tuy nhiên, về yếu tố Tăng Tuyết Minh, nhà nghiên cứu Sophie Quinn-Judge có quan điểm dè dặt hơn : vào thời kỳ đó, nhiều lúc một cuộc hôn nhân gia đình diễn ra chỉ đơn thuần vì nguyên do chính trị, theo bà thì Hồ Chí Minh và Tăng Tuyết Minh đã sống chung với nhau như một cách ngụy trang để duy trì những hoạt động giải trí chính trị của họ. [ 20 ]

Cũng theo Sophie Quinn-Judge, nếu căn cứ theo các tài liệu từ văn khố của Đệ Tam Quốc tế từ năm 1934 đến 1935 Nguyễn Thị Minh Khai có nhận mình là vợ của Hồ Chí Minh vào thời điểm năm 1931. Khi Nguyễn Thị Minh Khai đến Moskva cuối năm 1934, bà đã viết rằng bà đã có gia đình với “Lin”, bí danh của Hồ Chí Minh vào thời điểm này.[21] Tuy nhiên, trong một cuộc phỏng vấn của đài Ban Tiếng Việt BBC, Sophie Quinn-Judge cũng nói thêm rằng mình “không biết chắc liệu đây có thuộc về dạng hôn nhân thật sự hay không” vì trong các thư từ của họ thường sử dụng nhiều loại mật mã, và nói chung những người hoạt động cách mạng có thể xem là “thuộc về một thế giới khác, vượt khỏi các khuôn khổ đạo đức bình thường” nên khó mà biết rõ cách thức hoạt động của họ.[20] Ngoài ra, Sophie Quinn-Judge cũng tìm ra một bức thư mà Nguyễn Thị Minh Khai viết vào năm 1933, trong đó Nguyễn Thị Minh Khai khẳng định rằng mình không hề bị vướng bận bởi chuyện chồng con, vì “người chồng” duy nhất của bà chính là sự nghiệp Cách mạng.[21]

Năm 1945, Hồ Chí Minh nói với nhà báo Harold Isaacs rằng ông đơn độc, không có mái ấm gia đình, không có gì cả nhưng đã từng có một người vợ [ 22 ]. Nhưng trong nhiều cuộc gặp mặt khác, Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định chắc chắn ông không có vợ và sẽ không lấy vợ cho đến lúc dân tộc bản địa Nước Ta toàn thắng, thống nhất quốc gia. [ 23 ] [ 24 ] [ 25 ] [ 26 ]. Trong một buổi tiệc ở Bắc Kinh vào tháng 8 năm 1959, Hồ Chí Minh cũng đã công bố với quan khách : chừng nào miền Nam chưa được giải phóng, ông sẽ không khi nào kết hôn. Ngoài ra, ông cũng đã nhiều lần chứng minh và khẳng định sẽ không kết hôn cho đến khi cách mạng Nước Ta thành công xuất sắc. [ 19 ]Trong những thư từ, ông cũng nhiều lần khẳng định chắc chắn rõ ông là người không có mái ấm gia đình riêng và không có con cháu. Chẳng hạn như trong thư gửi bác sĩ Vũ Đình Tụng khi nghe tin con trai ông này hi sinh :

“ Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là đại gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột.[27] ”

Những người con đỡ đầu[sửa|sửa mã nguồn]

“Gửi một cái hôn lớn cho con gái đỡ đầu bé nhỏ Babette. Cha đỡ đầu của con. Hồ”.Bức chân dung của chính mình được Hồ Chí Minh đề tặng cho cô con gái nuôi Babette với dòng chữ tiếng Pháp được tạm dịchSinh thời, Hồ Chí Minh có ba người con đỡ đầu ở Pháp, Đức và Nga. Ngày 27 tháng 7 năm 1946, trong buổi chiêu đãi chúc mừng Hồ Chí Minh sang thăm Pháp do Việt kiều ở Pháp tổ chức triển khai tại vườn hồng Bagatelle trong thành tháp Bá tước Artois bên rừng Boulogne, ông Raymond Aubrac, cựu ủy viên Cộng hòa thành phố Marseille và là nghị sĩ Quốc hội Pháp được ra mắt với Hồ Chí Minh. Aubrac mời Hồ Chí Minh về thăm nhà mình và ông đã vui tươi nhận lời và đến ngày 28 tháng 7 thì chuyển đến ở nhà ông Aubrac. Ngày 15 tháng 8, bà Lucie Aubrac sinh hạ bé gái Elizabeth Aubrac. Hồ Chí Minh đã đến bệnh viện phụ sản Bodeloque, quốc lộ Port Royal, Quận 5, Paris thăm bà Lucie Aubrac. Tại đây ông đã xin phép ông bà Aubrac nhận làm cha đỡ đầu của bé Elizabeth Aubrac và gọi thân thiện cháu là Babette. [ 28 ] [ 29 ] Ngày 21 tháng 7 năm 1967, giáo sư Raymond Aubrac cùng với giáp sư Herbert Marcovic sang TP.HN gặp gỡ những nhà chỉ huy Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để chuyển một thông điệp của Tổ chức chống cuộc chiến tranh hạt nhân ( Prugwash ) nhằm mục đích tìm kiếm một giải pháp cho yếu tố Nước Ta. Trong buổi tiếp hai ông tối 24 tháng 7, Hồ Chí Minh đã hỏi thăm bà Lucie Aubrac và những cháu, nhất là Elizabeth. Ông Aubac đã chuyển món quà khuyến mãi của Elizabeth là một quả trứng bằng đá quý đến Hồ Chí Minh. [ 30 ]

Ngày 19 tháng 5 năm 1951, gia đình ông bà Walter R. Hartmann sinh sống ở số nhà 13, phố Ernst Thalman, thành phố Potsdam, hạt Sachs, Đông Đức sinh hạ bé trai Knuth Wolfgang Walther Hartmann. Do thấy ngày, tháng sinh của Knuth ngẫu nhiên trùng với ngày sinh của Hồ Chí Minh, ông bà Walter R. Hartmann đã gửi thư cho Hồ Chí Minh đề nghị ông nhận Knuth làm con đỡ đầu. Ngày 15 tháng 9 năm 1951, Hồ Chí Minh đã gửi thư đến gia đình Walter R. Hartmann. Thư có đoạn viết: “Tôi thân ái mừng bà và ông vừa có cháu trai là Knuth Wolfgang Walther Hartmann. Tôi cảm ơn bà và ông đã gửi thư và ảnh cho tôi. Và tôi rất vui lòng nhận cháu làm con đỡ đầu. Tôi gởi biếu cháu một bức ảnh nhỏ và một đồng Việt Nam để làm kỷ niệm”.[31]

(trái) và bà Lucie Aubrac (phải). Paris-12/9/1946Hồ Chí Minh, bé Elizabette Aubracvà bà Lucie Aubrac. Paris-12 / 9/1946

Mùa xuân năm 1958, tại thành phố Jukovski (ngoại ô Moskva), bà y sĩ Anna Vasilievna là vợ của nhà báo hãng APN (Liên Xô) Dimitri Grigorievich Kolosov (bút danh Denis) sinh con gái là Irina Dimitrievna (tên thân mật là Idrishka). Dù chưa một lần được gặp Hồ Chí Minh nhưng ông bà Kolosov đã viết thư đề nghị Hồ Chí Minh nhận làm cha đỡ đầu cho con gái đầu lòng của họ theo phong tục tốt đẹp của nước Nga. Mùa hè năm 1958, ông bà Kolosov nhận được thư trả lời của Hồ Chí Minh: “Cô An-na Xta-xi-a Va-xi-lép-na và chú Đi-mi-tơ-ri Gơ-ri-gô-rê-vích thân mến! Tôi đã nhận được thư của cô chú và chân thành cảm ơn cô chú đã mời tôi làm cha đỡ đầu cho con gái của cô chú.”[32]

Sau này, những người con đỡ đầu của Hồ Chí Minh đều trưởng thành và có những thành đạt nhất định trong đời sống. Elizabeth Aubrac trở thành giáo viên. Knuth Wolfgang Walther Hartmann trở thành kỹ thuật viên chăn nuôi bò sữa. Còn Irina Dimitrievna Kolosov Giao hàng trong ngành công an, rồi cùng chồng là Igo Tribisov, cán bộ ngành hàng không gia dụng đến thao tác trong một doanh nghiệp khai thác dầu khí ở Tiumen ( Tây Siberi ). [ 33 ] [ 34 ]

  • Кобелев, Евгений Васильевич (1985). Đồng chí Hồ Chí Minh. Hà Nội: Nhà xuất bản Thanh niên.

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Rate this post