Chánh kiến là gì và lợi ích của chánh kiến

Đạo Phật vốn là tôn giáo vô ngã, phá chấp, không có tín điều, và tuyệt đối tôn trọng sự thực ; do đó, đồng ý hay không đồng ý những lời công bố của Đức Phật trọn vẹn thuộc quyên tự do tư tưởng của mỗi tất cả chúng ta chứ không phải ai khác .>> Kiến thức

Bài liên quan

Thế nào là chân chánh phát tâm Bồ đề?

Trên đời này có những người có chánh kiến, tin rằng sự bố thí cúng dường sẽ đem lại những kết quả tốt đẹp; các hành vi thiện ác đều dẫn đến quả báo; đồng thời cũng tin rằng có những người chân chánh hành trì Chánh pháp, tuyên bố những điều do tự mình thể nghiệm và chứng ngộ. Do nguyên nhân chánh kiến này mà một số loài hữu tình sau khi mệnh chung được sinh vào thiện thú, cõi đời này (Trung Bộ kinh I).Thời cổ đại, Ấn Độ là một trong những nước văn minh, từng có nhiều triết gia xuất chúng, thế nhưng vẫn có những chủ thuyết sai lầm và lạc hậu. Một trong những chủ trương tệ hại nhất chính là sự phân biệt chủng tộc và tự tôn giai cấp một cách mù quáng của giới tu sĩ Bà la môn lúc bấy giờ. Do đó, sau khi chứng đạt Vô thượng Chánh giác, Đức Phật đã vận dụng trí tuệ siêu tuyệt, vạch trần những chủ trương phi lý của họ, để cho mặt trời chân lý được hoàn toàn sáng tỏ.

Theo Đức Phật, những ai không hiểu rõ lý Tứ đế thì không thể gọi là Sa môn hay Bà la môn chân chánh.

Mục lục nội dung

Theo Đức Phật, những ai không hiểu rõ lý Tứ đế thì không thể gọi là Sa môn hay Bà la môn chân chánh.

Những người Bà la môn chủ trương : “ Chỉ có Bà la môn là chủng tộc tối thượng, những chủng tộc khác là thấp hèn ; chỉ có Bà la môn là thanh tịnh, những chủng tộc khác thì không thanh tịnh. Các Bà la môn là con chính thống của Phạm thiên, do Phạm thiên sinh ra, được quyền thừa tự Phạm thiên ” ( Trung Bộ kinh II, 84 ).

Bài liên quan

Nắm lấy hơi thở chánh niệmĐể phản bác quan điểm sai lầm đáng tiếc này, Đức Phật công bố : “ Này Bà la môn, nếu tự thể được sinh ra trong chủng tộc Bà la môn, thì người ấy được công nhận là Bà la môn. Nếu tự thể được sinh ra trong chủng tộc Sát đế lợi, thì người ấy được công nhận là Sát đế lợi. Nếu tự thể được sinh ra trong chủng tộc Phệ xá, Thủ đà, thì người ấy được công nhận là Phệ xá, Thủ đà. Này Bà la môn, cũng như ngọn lửa từ một vật gì được đốt lên thì nó được gọi tên tùy theo vật ấy. Ví dụ ngọn lửa được đốt lên từ củi, thì gọi là lửa củi ; từ dăm bào thì gọi là lửa dăm bào ; từ cỏ thì gọi là lửa cỏ ; từ phân bò thì gọi là lửa phân bò. Cũng vậy, này Bà la môn, Ta nhớ lại những gia tộc rất lâu rồi của mình, chỗ nào tự thể được sinh ra, thì tự thể ấy được công nhận tùy theo gia tộc ấy. Riêng Ta, Ta chủ trương Thánh pháp là chiếm hữu tối thượng của mỗi người ” ( Trung Bộ kinh II, 181 ). Qua mấy định nghĩa trên đây, chúng ta hiểu thế nào là trưởng lão và thế nào là không phải trưởng lão.

Qua mấy định nghĩa trên đây, chúng ta hiểu thế nào là trưởng lão và thế nào là không phải trưởng lão.

“ Này Bà la môn, ông phải hiểu rằng : Nếu một người Bà la môn có những hành vi phạm pháp, như ăn trộm hoặc giết người, thì nó được gọi là tên trộm cướp, là kẻ sát nhân, và tên tuổi Bà la môn của nó trước kia đã biến mất. Trái lại, nếu một người Thủ đà học rộng, có phẩm chất cao quý, thì thiên hạ gọi người ấy là nhà bác học, là bậc Hiền triết, và tên tuổi Thủ đà của người ấy trước kia nay không còn nữa ” ( Trung Bộ kinh II, 88 ).

Bài liên quan

Thiền viện Trúc Lâm Chánh Giác – Thiền viện lớn nhất Tiền GiangTheo Đức Phật, những ai không hiểu rõ lý Tứ đế thì không hề gọi là Sa môn hay Bà la môn chân chánh. Trái lại, chỉ có những ai thấu triệt “ Đây là khổ ”, “ Đây là khổ tập ”, “ Đây là khổ diệt ”, “ Đây là con đường đưa đến khổ diệt ”, thì những người ấy mới đáng gọi là Sa môn trong hàng Sa môn, là Bà la môn trong hàng Bà la môn. Vì chỉ có những Tôn giả ấy mới hoàn toàn có thể dùng thắng trí để chứng đạt mục tiêu của Sa môn, của Bà la môn và an trú ngay trong hiện tại ( Itivuttaka, 103, tr. 77 ). Bà la môn Kandaràyana phê bình Tôn giả Mahàkaccàna thiếu tôn kính so với những vị Sa môn, Bà la môn già cả mà ông Kandaràyana cho rằng đó những hàng trưởng lão đáng được mọi người kính trọng. Tôn giả Kaccàna vấn đáp như sau : “ Này Bà la môn, Đức Thê Tôn là Bậc Vô thượng Chánh giác đã cho biết thế nào là trưởng lão, và thế nào là không phải trưởng lão : Nếu một người già 80, 90 hay 100 tuổi mà đắm mình trong dục vọng, luôn luôn truy cầu những dục vọng, bị ngọn lửa dục vọng thiêu đốt, thì thiên hạ gọi người ấy là kẻ ngu si, không phải là trưởng lão. Trái lại, nếu một người trai trẻ, tuổi đời còn xuân xanh, mà sống thanh khiết, trong trắng, không tận hưởng những dục vọng, không truy cầu những dục vọng, không bị lửa dục vọng thiêu đốt, người như vậy đáng được gọi là bậc Hiền trí, là hàng trưởng lão ” ( Tăng Chi Bộ kinh I, 11, tr. 81 ). Sinh, già, bệnh, chết là những quy luật tự nhiên thường xảy ra trên cõi đời này, không một ai tránh khỏi, kể cả chư Thiên ở các cõi trời.

Sinh, già, bệnh, chết là những quy luật tự nhiên thường xảy ra trên cõi đời này, không một ai tránh khỏi, kể cả chư Thiên ở các cõi trời.

Đồng thời, Đức Phật cũng đưa ra một định nghĩa về trưởng lão ở một chỗ khác : “ Này những Tỷ kheo, nếu một người già 80, 90 hay 100 tuổi, mà nói phạm pháp, không bình thường, không hợp thời, lời nói không nhằm mục đích mục tiêu, thì người ấy chỉ được gọi là một ông già ngu si. Trái lại, nếu một người còn trai trẻ, tuổi còn thanh xuân, mà nói đúng pháp, nói đúng lúc, có nghĩa lý, lời nói nhằm mục đích mục tiêu tốt đẹp, thì người ấy được gọi là bậc trưởng lão có trí ” ( Tăng Chi Bộ kinh IIA, 22, tr. 31 ).

Bài liên quan

Lợi ích của Chánh niệm và tác hại của sự thiếu Chánh niệmQua mấy định nghĩa trên đây, tất cả chúng ta hiểu thế nào là trưởng lão và thế nào là không phải trưởng lão. Chúng ta biết rằng Đức Phật là Đấng Toàn giác nên những gì Ngài nói ra đều nhằm mục đích làm cho thiện pháp tăng trưởng, bất thiện pháp suy giảm, đem lại quyền lợi cho mọi người ; do đó, Ngài đã khuyến nghị Bà la môn Vassakara phải thận trọng khi nói năng : “ Này Bà la môn, điều gì đã được thấy, được nghe, được biết, mà khi nói ra bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm, thì không nên nói. Trái lại, điều gì đã được thấy, được nghe, được biết, mà khi nói ra thiện pháp tăng trưởng, bất thiện pháp tổn giảm, thì nên nói ra điều ấy ” ( Tăng Chi Bộ kinh II, số 183 ). Như vậy, Đức Phật đã cho tất cả chúng ta biết phải nói như thế nào cho có quyền lợi và đạt được mục tiêu tốt đẹp ; Ngài còn dạy những đệ tử phải học tập và thực hành thực tế như thế nào cho đúng với Chánh pháp : “ Này những Tỷ kheo, vị Tỷ kheo học thuộc lòng pháp, nhưng không biết mục tiêu tối thượng của phap, thì đó là người giỏi học thuộc lòng mà không sống đúng theo pháp. Lại nữa, vị Tỷ kheo thuyết pháp một cách lưu loát, nhưng không hiểu rõ mục tiêu tối thượng của pháp, thì đó là người chỉ giỏi hùng biện mà không sống đung theo pháp. Trái lại, một Tỷ-kheo học thuộc lòng những kinh, thuyết pháp một cách lưu loát, đồng thời hiểu rõ mục tiêu tối thượng của pháp, thì đó là vị Tỷ kheo sống đúng với pháp ” ( Tăng Chi Bộ kinh IIB, tr. 118 ). Đứng trước những thăng trầm được mất đối với những sở hữu của đời mình, Đức Phật chỉ cho chúng ta thấy những gì có giá trị ít nhất và những gì có giá trị nhiều nhất.

Đứng trước những thăng trầm được mất đối với những sở hữu của đời mình, Đức Phật chỉ cho chúng ta thấy những gì có giá trị ít nhất và những gì có giá trị nhiều nhất.

Bài liên quan

Đôi điều chia sẻ về kinh nghiệm tu tập chánh phápSinh, già, bệnh, chết là những quy luật tự nhiên thường xảy ra trên cõi đời này, không một ai tránh khỏi, kể cả chư Thiên ở những cõi trời. Trong khi, những kẻ thiếu trí tận mắt chứng kiến những sự kiện ấy xảy đến thường đâm ra sợ hãi, sơ hãi, thì trái lại, những Thánh đệ tử lại tâm lý : “ Không phải chỉ có một mình ta già, bệnh, chết, mà toàn bộ loài hữu tình hễ có sinh thì phải có diệt, đó là quy luật tự nhiên. Do đó, những Thánh đệ tử này không sầu não, khổ đau, thế nên họ được gọi là những người đã nhổ lên mũi tên sầu muộn có tẩm thuốc độc mà những người thế tục vô trí thường bị bắn trúng ” ( Tăng Chi Bộ kinh IIB, 48, tr. 81 ). Nàng Kisà Gotami sinh ra trong một mái ấm gia đình bần hàn, lớn lên đi lấy chồng, lại gặp thực trạng bị hất hủi, khinh rẻ đến lúc sinh một bé trai, nàng cảm thấy mình được an ủi rất nhiều. Nhưng xấu số thay, con nàng bị tử trận. Người ta khuyên nàng đến gặp Đức Phật để xin thuốc cứu con. Nàng ngoan ngoãn vâng lời, tìm đến Đức Phật. Biết cơ duyên đã thuần thục, Đức Đạo sư khuyên nàng đi xin một nắm hạt cải của một mái ấm gia đình nào chưa từng có người chết để về làm thuốc cứu sống đứa bé. Thế nhưng, nang đi tìm hỏi khắp nơi mà không có một nhà nào là không có người chết. Vỡ lẽ về sự vô thường không một ai trên đời này tránh khỏi, nàng đem con ra nghĩa trang hỏa thiêu, và thốt lên bài kệ : ” Sự chết không dành riêng Cho làng nào, nhà nào Không dành riêng một ai Kể luôn cả chư Thiên ”. ( Trưởng lão Ni kê XIII, tr. 63 ) Người xuất gia khi được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng không nên hoan hỷ, tham đắm, phóng túng, cũng không khen mình, chê người mà nỗ lực thành tựu giới đức, thành tựu Thiền định, thành tựu trí tuệ và thành tựu giải thoát.

Người xuất gia khi được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng không nên hoan hỷ, tham đắm, phóng túng, cũng không khen mình, chê người mà nỗ lực thành tựu giới đức, thành tựu Thiền định, thành tựu trí tuệ và thành tựu giải thoát.

Tôn giả Sona vì không khéo điều hòa trong lúc tu tập, nên nản chí muốn quay trở lại đời sống thế tục. Đức Phật liền hiện đến trước thầy, hoi rõ nguyên do, rồi nêu ví dụ để khuyến khích : “ Hành giả tu tập Thánh pháp cũng giống như một nhạc sĩ phải biết lên dây đàn đúng chừng mực, không căng quá cũng không chùn quá, thì tiếng đàn mới phát ra giai điệu nỉ non, trầm bổng. Cũng vậy, hành giả phải tinh tấn có chừng mực, điều hòa đời sống một cách khôn khéo, uyển chuyển, thì đời sống phạm hạnh mới thành tựu viên mãn ” ( Tăng Chi Bộ kinh IIB, 421 ).

Bài liên quan

Từ những phát ngôn miệt thị của TS Dương Ngọc Dũng, nghĩ về Chánh NgữĐể cảnh tỉnh những người nông nổi chỉ chú tâm vào hình thức bên ngoài mà lơ là so với mục tiêu chính yếu, Đức Phật dạy : “ Này những Tỷ kheo, nếu một Tỷ kheo nắm lấy vạt áo Tăng già lê đi theo sau Ta, chân bước theo chân, nhưng lòng đầy tham ái, sân hận và nhiễm ô, không tỉnh táo, không chánh niệm, thì người ấy cách Ta rất xa, và Ta rất xa cách người ấy. Vì sao vậy ? Vì người ấy không thấy pháp ; do không thấy pháp nên không thấy Ta. Trái lại, nếu một Tỷ kheo sống cách xa Ta hàng trăm do tuần, nhưng lòng không tham ái, sân hận và nhiễm ô, luôn tỉnh giác và chánh niệm, thì vị ấy rất gần Ta, và Ta rất gần vị ấy. Vì sao vậy ? Vì vị ấy thấy pháp, do thấy pháp nên thấy Ta ” ( Itivuttaka, 92, tr. 67 ). Đứng trước những thăng trầm được mất so với những chiếm hữu của đời mình, Đức Phật chỉ cho tất cả chúng ta thấy những gì có giá trị tối thiểu và những gì có giá trị nhiều nhất : “ Này những Tỷ kheo, sự mất mát nhỏ bé nhất trong những sự mất mát là mất mát gia tài. Sự mất mát to lớn nhất trong những sự mất mát là mất mát trí tuệ. Sự tăng trưởng ít có giá trị nhất trong những sự tăng trưởng là tăng trưởng gia tài. Sự tăng trưởng lớn lao nhất trong những sự tăng trưởng là tăng trưởng trí tuệ. Do vậy, những thầy cần phải học tập như sau : Chúng ta phải luôn luôn làm tăng trưởng trí tuệ ” ( Tăng Chi Bộ kinh I, 14, tr. 22 ) .

Đức Phật chỉ rõ mục đích sống Phạm hạnh là để đoạn trừ tận gốc sinh già bệnh chết, sâu bi khổ ưu não.

Đức Phật chỉ rõ mục đích sống Phạm hạnh là để đoạn trừ tận gốc sinh già bệnh chết, sâu bi khổ ưu não.

Rồi Đức Phật chỉ rõ mục tiêu sống Phạm hạnh là để đoạn trừ tận gốc sinh già bệnh chết, sâu bi khổ ưu não. Do vậy, người xuất gia khi được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng không nên hoan hỷ, tham đắm, phóng túng, cũng không khen mình, chê người mà nỗ lực thành tựu giới đức, thành tựu Thiền định, thành tựu trí tuệ và thành tựu giải thoát. Khi đã giải thoát, người này sẽ không khi nào xa rời trạng thái giải thoát ấy. Rồi Phật ví dụ : “ Ví như một người đi tìm lõi cây, khi tìm thấy một cây to lớn, người ấy biết rõ lá cây, biết rõ cành cây, biết rõ vỏ cây, biết rõ giác cây và biết rõ lõi cây. Thế nên, người ấy vô hiệu lá cây, vô hiệu cành cây v.v…, mà chỉ chặt lấy lõi cây đem về. Đó là người đã đạt được mục tiêu đi tìm lõi cây. Lõi cây ở đây được dùng đê ví dụ cho trạng thái giải thoát rốt ráo của một đời sống Phạm hạnh ” ( Trung Bộ kinh I, 197 ).

Bài liên quan

Xây dựng chánh ngữ để ứng phó khủng hoảng truyền thôngMục đích ấy cũng đã được Tôn giả Punna Mantàniputta trình diễn với Tôn giả Sàriputta một cách tóm tắt : “ Này Hiền giả, giới thanh tịnh là nhằm mục đích mục tiêu đạt đến tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh là nhằm mục đích đạt đến tri kiến thanh tịnh. Tri kiến thanh tịnh là nhằm mục đích đạt đến đoạn nghi thanh tịnh. Đoạn nghi thanh tịnh là nhằm mục đích đạt đến Đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh. Đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh là nhằm mục đích đạt đến trí tuệ thanh tịnh. Trí tuệ thanh tịnh là nhằm mục đích đạt đến Vô thủ trước Niết bàn. Này Hiền giả, sống Phạm hạnh dưới sự hướng dẫn của Đức Thế Tôn là nhằm mục đích đạt đến Vô thủ trước Niết ban chứ không có gì khác ” ( Trung Bô kinh III, tr. 150 ). Bà la môn Nigrodha hiểu nhầm rằng Phật giảng pháp là để khuyến dụ ông từ bỏ nghề nghiệp, từ bỏ kinh sách của ông và mong thu nhận được nhiều đệ tử. Đức Phật đã minh định : “ Này Nigrodha, Ta nói như vậy không phải vì muốn cho ông từ bỏ nghề nghiệp sinh sống, từ bỏ kinh sách của ông và mong thu nhận được nhiều đệ tử. Này Nigrodha, có những pháp bất thiện, nếu không được đoạn trừ, sẽ phát sinh câu uế, dẫn đến khổ đau trong hiện tại và tương lai. Mục đích Ta thuyết giảng là để đoạn trừ những pháp bất thiện ấy. Nếu những ông thực hành thực tế theo lời giảng dạy của Ta, thì những cấu uế của những ông được đoạn trừ, những pháp thanh tịnh được tăng trưởng, nhờ đó những ông chứng ngộ trí tuệ viên mãn và đạt được an nhàn ngay trong hiện tại ” ( Trường Bộ kinh IV, tr. 57 ). Có một số thiên nhân đến hỏi Đức Phật làm thế nào để được điềm lành. Đức Phật khuyên họ hãy làm các việc thiện, vì chỉ có những việc thiện mới đem đến những điềm lành thực sự.

Có một số thiên nhân đến hỏi Đức Phật làm thế nào để được điềm lành. Đức Phật khuyên họ hãy làm các việc thiện, vì chỉ có những việc thiện mới đem đến những điềm lành thực sự.

Ngoài ra cũng có 1 số ít Sa môn, Bà la môn khác xuyên tạc Đức Phật một cách hồ đồ, họ bảo rằng : “ Sa môn Gotama chủ trương chủ nghĩa Hư vô, tôn vinh đoạn diệt, nhằm mục đích hủy hoại những loài hữu tình ”. Để vấn đáp những người này, Đức Phật lý giải : “ Này những Bà la môn, Ta chỉ nói lên sự khổ và chiêu thức diệt khổ. Do vậy, nếu có người hủy báng, nhục mạ làm cho Ta tức giận, thì ở đây Ta không tức giận. Trái lại, nếu có người tôn kính, tán thán Ta, thì ở đây Ta không hãnh diện. Vì sao vậy ? Vì Ta nghĩ rằng : pháp này đã có từ nghìn xưa, và đây là những bổn phận mà Ta phải thực thi ” ( Trung Bộ kinh I, tr. 140 ).

Bài liên quan

Lời Phật dạy sâu sắc về Giới Định Tuệ và Bát Chánh ĐạoTôn giả Kassapa sau khi giáo hóa Bà la môn Pàyàsi, thầy bèn chỉ cho ông biết những tế đàn nào ít có tác dụng và những tế đàn nào có tác dụng nhiều nhất : “ Này Pàyàsi, tại những tế đàn nào có trâu bò gà heo bị giết hại, có những loài động vật hoang dã khác bị quyết tử, những người tham gia tế đàn có tà kiến, tà mạng thì những tế đàn ấy không đem lại quyền lợi thiết thực, tác dụng thiêt thực ; do vậy, những tế đàn ấy không nên tiếp thị thoáng rộng. Trái lại, tại những tế đàn nào không có những loài động vật hoang dã bị quyết tử, những người tham gia có chánh kiến, chánh mạng, thì những tế đàn ấy đem lại quyền lợi thiết thực, tác dụng thiết thực ; do vậy, những tế đàn ấy đáng được tiếp thị thoáng rộng ” ( Trường Bộ kinh III, tr. 352 ). Trong một dịp khác, Đức Phật cũng giảng cho Bà la môn Kutadanta biết thế nào là tế đàn ít tốn kém mà đem lại rất nhiều tác dụng : “ Này Bà la môn, những nơi bố thí liên tục, cúng dường cho những vị xuất gia có giới đức, là tế đàn ít tốn kém nhất, ít phiền phức nhất, mà đem lại nhiều quyền lợi, nhiều tác dụng nhất … Này Bà la môn, thiết kế xây dựng tịnh xá cho thập phương Tăng, thành tâm quy y Tam bảo, thọ trì 5 giới, tu tập những Thiền định …, là tế đàn ít tốn kém nhất mà đem lại nhiều quyền lợi nhất. Này Bà la môn, Ta công bố : không có một tế đàn nào khác cao quý hơn, thù thắng hơn là tế đàn này ” ( Trường Bộ kinh II, tr. 144 – 148 ). Trên đời này không có những bâc chân chánh hành trì Chánh pháp, thành tựu trí tuệ, chứng đạt đạo quả; sau khi chứng đạt, tuyên bố những điều do tự mình thể nghiệm và chứng ngộ.

Trên đời này không có những bâc chân chánh hành trì Chánh pháp, thành tựu trí tuệ, chứng đạt đạo quả; sau khi chứng đạt, tuyên bố những điều do tự mình thể nghiệm và chứng ngộ.

Có một số ít thiên nhân đến hỏi Đức Phật làm thế nào để được điềm lành. Đức Phật khuyên họ hãy làm những việc thiện, vì chỉ có những việc thiện mới đem đến những điềm lành thực sự, như kinh Mangalasutta diễn đạt : ” Không thân cận kẻ ngu Nhưng thân thiện người trí Đảnh lễ bậc đáng kính Là điềm lành tối thượng. Hiếu kính với mẹ cha, Nuôi dưỡng vợ cùng con Làm những nghề lương thiện Là điềm lành tối thượng. Bố thí đúng Chánh pháp Săn sóc những người thân trong gia đình Hành động không lỗi lầm Là điềm lành tối thượng ”. ( Kinh Tập 46, tr. 40 ) Trong một trường hợp khác, Đức Phật lại giảng cho những Tỷ kheo về những điềm lành : “ Này những Tỷ kheo, loài hữu tình nào, vào buổi mai thân thao tác lành, miệng nói lời lành, ý nghĩ điều lành, thì loài hữu tình ấy có một buổi mai tốt đẹp. Loài hữu tình nào vào buổi trưa …, vào buổi chiều, thân thao tác lành, miệng nói lời lành, ý nghĩ điều lành, thì loài hữu tình ấy có một buổi chiều tốt đẹp ” ( Tăng Chi Bộ kinh I, 294, tr. 343 ). Đạo Phật vốn là tôn giáo vô ngã, phá chấp, không có tín điều, và tuyệt đối tôn trọng sự thực; do đó, chấp nhận hay không chấp nhận những lời tuyên bố của Đức Phật hoàn toàn thuộc quyên tự do tư tưởng của mỗi chúng ta chứ không phải ai khác.

Đạo Phật vốn là tôn giáo vô ngã, phá chấp, không có tín điều, và tuyệt đối tôn trọng sự thực; do đó, chấp nhận hay không chấp nhận những lời tuyên bố của Đức Phật hoàn toàn thuộc quyên tự do tư tưởng của mỗi chúng ta chứ không phải ai khác.

Tin hay không tin những điều do Phật tuyên bố là quyền của mỗi chúng ta; nhưng chắc chắn chúng ta không thể nghi ngờ tấm lòng bi mẫn thương xót chúng sanh của Đấng Vô thượng Chánh giác. Đoạn kinh sau đây, Đức Phật cho chúng ta thấy hậu quả tai hại của những người có tà kiến và kết quả tốt đẹp của những người có chánh kiến: “Này các gia chủ, trên đời này có những người mang nặng tà kiến cho rằng sự bố thí cúng dường không đem lại kết quả tốt đẹp; các hành vi thiện ác cũng không đưa đến quả báo. Trên đời này không có những bâc chân chánh hành trì Chánh pháp, thành tựu trí tuệ, chứng đạt đạo quả; sau khi chứng đạt, tuyên bố những điều do tự mình thể nghiệm và chứng ngộ. Vì nguyên nhân tà kiến này mà một số loài hữu tình sau khi mệnh chung phải sinh vào ác thú, địa ngục”.

Bài liên quan

Con đường Bát chánh đạo của Phật tử Lê Phước Vũ… “ Và này những gia chủ, trên đời này có những người có chánh kiến, tin rằng sự bố thí cúng dường sẽ đem lại những tác dụng tốt đẹp ; những hành vi thiện ác đều dẫn đến quả báo ; đồng thời cũng tin rằng có những người chân chánh hành trì Chánh pháp, công bố những điều do tự mình thể nghiệm và chứng ngộ. Do nguyên do chánh kiến này mà 1 số ít loài hữu tình sau khi mệnh chung được sinh vào thiện thú, cõi đời này ” ( Trung Bộ kinh I, tr. 287 – 289 ). Đến đây, có lẽ rằng tất cả chúng ta đã quá rõ thế nào là chánh kiến và thế nào là tà kiến, quyền lợi của chánh kiến ra làm sao và tai hại của tà kiến là thế nào, nhờ vào trí tuệ đích thực chứ không phải dựa vào niềm tin mù quáng. Hơn nữa, đạo Phật vốn là tôn giáo vô ngã, phá chấp, không có tín điều, và tuyệt đối tôn trọng sự thực ; do đó, gật đầu hay không gật đầu những lời công bố của Đức Phật trọn vẹn thuộc quyên tự do tư tưởng của mỗi tất cả chúng ta chứ không phải ai khác. Chính quyền tự do tư tưởng này mới là thực chất đích thực của đạo Từ bi và Trí tuệ.

Rate this post