Protein (dinh dưỡng) – Wikipedia tiếng Việt

Nguồn protein từ thịt cá

Chất đạm Protein là chất dinh dưỡng (dưỡng chất) thiết yếu của cơ thể con người[1] cũng như cơ thể các động vật nói chung. Chất đạm cung cấp các thành tố để cấu trúc nên cơ thể sinh học. Protein là thành phần dinh dưỡng quan trọng nhất cấu tạo nên các bộ phận của cơ thể. Chúng có mặt trong thành phần nhân và chất nguyên sinh của các tế bào, chúng còn tham gia vào thành phần cơ bắp, máu, bạch huyết, hormone, men, kháng thể, các tuyến bài tiết và nội tiết.

Quá trình sống là sự thoái hóa và tái tạo thường xuyên của protein. Cơ thể cần một lượng protein bổ sung thông qua chế độ ăn hàng ngày. Chúng là nền tảng dinh dưỡng giúp tăng cơ bắp hiệu quả[2] Protein chiếm tới trên 50% khối lượng khô của tế bào và là vật liệu cấu trúc của tế bào, giúp hình thành, duy trì và thay thế các tế bào trong cơ thể. Nếu cơ thể thiếu protein sẽ dẫn đến suy dinh dưỡng, chậm lớn, suy giảm miễn dịch.

Thực phẩm nguồn gốc động vật (thịt, cá, trứng, sữa) là nguồn protein quý, nhiều về số lượng, và cân đối hơn về thành phần và đậm độ amino acid cần thiết cao. Hàm lượng các amino acid cần thiết trong thực phẩm nguồn gốc thực vật (đậu tương, gạo, mì, ngô, các loại đậu khác…) không cao (trừ đậu nành); nhưng cơ thể vẫn phải bổ sung cân đối đấy đủ các loại này. Đối với một người trưởng thành bình thường thì lượng đạm tối thiểu cho một ngày được tính theo công thức là 1g đạm trên mỗi kg trọng lượng cơ thể. Ví dụ nặng 60 kg cần tối thiểu 60g đạm/ngày[2].

Hầu hết những vi sinh vật và thực vật hoàn toàn có thể sinh tổng hợp toàn bộ 20 amino acido chính, trong khi ở động vật hoang dã ( gồm có con người ) phải nhận 1 số ít amino acido từ thức ăn. Các amino acido mà một sinh vật không hề tự tổng hợp được gọi là những amino acid thiết yếu. Những enzyme quan trọng mà tham gia tổng hợp một số ít amino acid từ thức ăn. Những enzyme quan trọng mà tham gia tổng hợp 1 số ít amino acido không có ở động vật hoang dã — như aspartokinase, tham gia xúc tác ở phản ứng tiên phong của quy trình tổng hợp lysine, methionine, và threonine từ aspartate. Nếu những amino acido xuất hiện trong môi trường tự nhiên, vi sinh vật hoàn toàn có thể bảo tồn được nguồn năng lượng bằng cách tiếp đón amino acido từ môi trường tự nhiên xung quanh chúng và điều hòa giảm sinh tổng hợp những amino acido này trong quy trình sinh dưỡng của nó .Ở động vật hoang dã, amino acido nhận được trải qua tiêu thụ thức ăn chứa protein. Protein tiêu hóa sau đó bị phân tách thành những amino acido nhờ quy trình tiêu hóa, mà nổi bật gồm có sự biến tính của protein do tiếp xúc với axit và bị thủy phân bởi enzyme xúc tác protease. Một số amino acido tiêu thụ được sử dụng để sinh tổng hợp protein mới, trong khi những amino acido khác chuyển hóa thành glucose nhờ quy trình tân tạo glucose ( gluconeogenesis ), hoặc tham gia vào quy trình axit citric. Việc sử dụng protein như là nguyên vật liệu rất quan trọng trong điều kiện kèm theo thiếu ăn khi nó được cho phép chính protein trong khung hình được sử dụng để tương hỗ sự sống, đặc biệt quan trọng như được tìm thấy ở cơ .

Rate this post