Dạy đọc bằng cách đọc (4)

Lời tác giả : Khi đăng loạt bài “ Dạy tiếng Việt : Dễ hay khó ? ”, tôi nhận được khá nhiều email, hầu hết từ cha mẹ và những thầy cô giáo dạy tiếng Việt rải rác khắp nơi, hỏi thăm về những chiêu thức dạy tiếng Việt. Phần lớn tập trung chuyên sâu vào một yếu tố đơn cử : Có nên sử dụng giải pháp đánh vần để dạy tiếng Việt hay không ?
Tôi viết loạt bài này xin thay cho câu vấn đáp với từng người thăm hỏi động viên. NHQ

***

Cách tốt nhất là học đọc bằng cách đọc. Nghĩa là đọc thẳng vào văn bản. Dĩ nhiên là dưới sự hướng dẫn của thầy cô giáo.

Nhưng đọc là gì ? Tự thực chất, đọc, trước hết, là sự giải thuật ( decoding ) những ký hiệu được viết. Trong sự giải thuật này, có hai mối quan hệ chính :
1. quan hệ giữa âm thanh và chữ viết
2. quan hệ giữa âm thanh – chữ viết và ý nghĩa ( tức, nói theo thuật ngữ ngôn ngữ học, giữa cái diễn đạt, signifier, và cái được miêu tả, signified ) .
Giải mã quan hệ giữa âm thanh và chữ viết thuộc quá trình tiên phong của việc tập đọc. Trong khi đó, quan hệ thứ hai, giữa âm thanh – chữ viết và ý nghĩa, thuộc giai đoan sau, quá trình đọc thực sự .
Trong việc dạy đọc trong những lớp vỡ lòng ( hay sơ cấp ), tất cả chúng ta chỉ tập trung chuyên sâu vào mối quan hệ thứ nhất .
Nói một cách vắn tắt, giải thuật mối quan hệ giữa âm thanh và chữ viết gồm có hai góc nhìn :
1. Nhìn mặt chữ, những em biết cách phát âm, và
2. Nghe một âm thanh nào đó được phát ra, những em biết phải viết như thế nào .
Hai góc nhìn ấy gồm có ba thao tác chính :
1. Nhận diện từ ( word recognition ) ( khi nhìn lên trang giấy )
2. Nhận diện được âm vị ( phoneme recognition ) ( khi nghe người khác nói )
3. Nhận diện được mối quan hệ tương hợp giữa âm vị và tự vị ( phoneme-grapheme correspondence ) ( để nối kết cái âm được nghe và con chữ in trên mặt giấy ) .
Dạy đọc, ở tiến trình tiên phong, thực ra là trang bị cho học viên có năng lực thực thi được ba thao tác trên .

Bài tập đọc

Trước khi nghiên cứu và phân tích ba thao tác ấy, xin quan tâm là, trong giờ tập đọc, tất cả chúng ta cần có một bài đọc nhất định. Bài đọc này hoàn toàn có thể đã có sẵn trong sách giáo khoa hoặc giáo viên phải tự tìm hoặc tự soạn lấy. Nhưng dù lấy từ đâu thì bài để tập đọc cần thỏa mãn nhu cầu được mấy tiêu chuẩn chính :
1. Ngắn gọn : Độ ngắn gọn tùy theo lứa tuổi và trình độ học vấn. Với trẻ nhỏ, có khi chỉ vài ba chữ ; sau, dài hơn, vài ba câu. Với học viên lớn tuổi hoặc sinh viên, số chữ không cần phải quá hạn chế .
2. Giản dị : Từ vựng dùng trong bài đọc cần dễ hiểu và thường gặp trong đời sống hàng ngày .
3. Có ý nghĩa : Đây là một nguyên tắc được hầu hết những nhà giáo dục đồng thuận. Học sinh chỉ thấy hứng thú khi học những gì có ý nghĩa. Thêm chút vui nhộn nhẹ nhàng lại càng tốt .
4. Mỗi bài tập đọc nên tập trung chuyên sâu đa phần vào 1 số ít khuôn vần nhất định. Số lượng những khuôn vần trong tiếng Việt, thật ra, không nhiều. Chỉ khoảng chừng một trăm rưỡi. Học hết những khuôn vần ấy, việc tập đọc của em coi như đã được xử lý xong về cơ bản. ( Nói cơ bản do tại sau đó, những em cần tập phát âm đúng những thanh điệu gắn liền với từng khuôn vần nữa ) .
Trong vấn đề vừa nêu, có hai yếu tố cần được làm sáng tỏ : Khuôn vần và số lượng khuôn vần trong tiếng Việt .
Khái niệm khuôn vần gắn liền với khái niệm âm tiết ( syllable ) .

Âm tiết

Các nhà ngôn ngữ học định nghĩa âm tiết là đơn vị chức năng phát âm nhỏ nhất. Ví dụ câu “ Tôi là người Nước Ta ” tiềm ẩn năm âm tiết :
Tôi / là / người / Việt / Nam
Qua ví dụ này, tất cả chúng ta thấy ngay là khái niệm âm tiết không như nhau với khái niệm từ ( word ). Ví dụ “ Nước Ta ” là một từ nhưng lại gồm đến hai âm tiết, “ Việt ” và “ Nam ”. Trong những ngôn từ Tây phương, như tiếng Anh ví dụ điển hình, sự phân biệt giữa từ và âm tiết lại càng rõ ràng : pro / fess / or ; stu / dent ; u / ni / ver / si / ty .
Cấu trúc âm tiết tiếng Việt khá ngặt nghèo, gồm có năm yếu tố được phân bổ như sau :
Thanh điệu ( 1 )

Âm đầu ( 2 )
VẦN
Âm đệm ( 3 )
Âm chính ( 4 )
Âm cuối ( 5 )

Năm yếu tố tạo thành âm tiết là :
1. Thanh điệu, gồm sáu thanh : ngang, hỏi, ngã, nặng, huyền và sắc .
2. Âm đầu : Luôn luôn do một phụ âm đảm nhiệm. Cũng hoàn toàn có thể trống, không có âm nào cả ( ví dụ : ăn, uống, anh, em )
3. Âm đệm : Do một bán nguyên âm ( semi-vowel ) đảm nhiệm. Bán nguyên âm này được biểu lộ bằng hai vần âm, hoặc là o ( hoa ) hoặc là u ( thuê ). Chức năng chính của âm đệm là làm nguyên âm sau trở thành tròn môi ( so sánh cách phát âm những chữ ha / hoa và thế / thuế ) .
4. Âm chính : Do một nguyên âm đảm nhiệm .
5. Âm cuối : Có thể là một phụ âm ( tiếng, Việt ) hoặc một bán nguyên âm ( mau, táo, nói ) hoặc để trống, không có âm vị nào cả ( thơ, thư ) .
Căn cứ vào sự phân bổ của những âm vị, âm tiết có 8 hình thức chính như sau :

Thanh điệu
1 .

nguyên âm

2 .

nguyên âm
âm cuối
3 .
âm đầu

nguyên âm

4 .
âm đầu

nguyên âm
âm cuối
5 .

âm đệm
nguyên âm

6 .

âm đệm
nguyên âm
âm cuối
7 .
âm đầu
âm đệm
nguyên âm

8 .

âm đệm
nguyên âm
âm cuối
Ví dụ :
Âm tiết ví dụ
Thanh điệu

ao

a
o
ta
t

a

người
ng

ườ
i
òa

o
à

uất

u

t
huế
h
u
ế

oan

o
a
n
Một số nhận xét về âm tiết của tiếng Việt :

Hai yếu tố chính và bắt buộc phải có của âm tiết là âm chính và thanh điệu.

Âm tiết ngắn nhất, gồm hai yếu tố: nguyên âm và thanh điệu, như: a, à, ạ, ừ, ồ
Âm tiết dài nhất, bao gồm 7 chữ cái: nghiêng (Trong tiếng Anh, từ một âm tiết dài nhất là các từ screeched, scratched, scrounged, scrunched, stretched, straights và strengths, tất cả đều gồm chín chữ cái).

Không có hiện tượng một chữ cái lặp lại hai lần liền nhau (trừ vài chữ phiên âm hoặc tượng thanh như quần soóc, kính coong, cái soong).

Trong năm yếu tố tạo thành âm tiết, bốn yếu tố thanh điệu, âm đệm, âm chính và âm cuối tạo thành vần (cũng gọi là khuôn vần). Như vậy, có thể định nghĩa vần một cách đơn giản và vắn tắt như sau: Đó là toàn bộ âm tiết, trừ phần âm đầu.

Khuôn vần

Trong tiếng Việt có khoảng chừng 150 khuôn vần chính [ 1 ] như sau :
A
a ( oa ), ac ( oac ), ach ( oach ), ai ( oai ), am ( oam ), an ( oan ), ang ( oang ), anh ( oanh ), ao ( oao ), ap ( oap ), at ( oat ), au ( oau ), ay ( oay )
Ă
ăc ( oăc ), ăm ( oăm ), ăn ( oăn ), ăng ( oăng ), ăp ( oăp ), ăt ( oăt )
Â
âc ( uâc ), âm, ân ( uân ), âng ( uâng ), âp ( uâp ), ât ( uât ), âu, ây ( uây )
E
e ( oe ), ec, em, en ( oen ), eng ( oeng ), eo ( oeo ), ep ( oep ), et ( oet )
Ê
ê ( uê ), êch ( uêch ), êm, ên ( uên ), ênh ( uênh ), êp, êt ( uêt ), êu
I
i ( uy ), ia ( uya ), ich ( uych ), iêc, iêm, iên ( uyên ), iêng, iêp, iêt ( uyêt ), iêu, im, in ( uyn ), inh ( uynh ), ip ( uyp ), it ( uyt ), iu ( uyu )
O
o, oc, oi, om, on, on, ooc, oong, op, ot
Ô
ô, ốc, ôi, ôm, ôn, ông, ôp, ôt
Ơ
ơ, ươ, ơi, ơm, ơn, ơp, ơt
U
u, ua, uc, ui, um, un, ung, uôc, uôi, uôm, uôn, uông, uôt, up, ut
Ư
ư, ưa, ưc, ưi, ưm, ưn, ưng, ươc, ươi, ươm, ươn, ương, ươp, ươt, ươu, ưt, ưu
Trong những vần ở trên, những vần được đặt trong ngoặc đơn là vần có thêm âm đệm ( viết bằng vần âm O hay U ) .
Tất cả những khuôn vần này đều ở dạng thanh ngang ( không dấu ). Trên trong thực tiễn, phần nhiều đều hoàn toàn có thể tích hợp với năm thanh còn lại ( trừ những vần kết thúc bằng phụ âm tắt, chỉ hoàn toàn có thể có một trong hai thanh : sắc và nặng ) .

Nhìn tổng số khuôn vần trong tiếng Việt, chúng ta có thể rút ra mấy nhận xét như sau:

Chúng khá ít. Do đó, việc học vần không phải là một vấn đề phức tạp. Ví dụ: khi học sinh đã có thể phát âm được vần “ông”, chắc chắn các em sẽ phát âm được những chữ như “bông”, “công”, “dông”, “đông”, “sông”, “tông”, “xông”, v.v…
Tất cả những vần đơn (chỉ gồm một nguyên âm) đều rất dễ đọc và dễ học.
Các vần bao gồm một nguyên âm đơn và một âm cuối cũng dễ đọc và dễ học.

Khó đọc và khó học, đặc biệt với người ngoại quốc, là ba loại vần:

Các vần kết hợp với nguyên âm đôi (iê, uô, ươ)
Các vần bắt đầu bằng âm đệm (oách, oăm, oeo, uêch, v.v…)
Và khi các vần ấy gắn liền với các thanh điệu, đặc biệt thanh ngã

Trình tự từ dễ đến khó:

Dễ

Khó
1

ê

chỉ có âm chính
2
t

ê

âm đầu + âm chính
3

ê
n
âm chính + âm cuối
4
t

ê
n
âm đầu + âm chính + âm cuối
5
t


n
nguyên âm đôi
6
t
u

n
êm đệm + nguyên âm đôi
7
t
u
yể
n
âm đệm + nguyên âm đôi + thanh

Ví dụ những từ tương ứng với bảy bậc dễ-khó ở trên :

1

a, e, ê, o, ô, ơ, u, ư

2

ba, ca, da, ga, ha, la …
bê, kê, dê, ghê, hê, lê
ca, co, cô, cơ, cư

3

am, an, ao, au, ơn, ân, ông, ưng, út

4

ban, cam, ham, lam, bên, bom, tôi, vơi

5

tiên, tươi, buồn, bươm bướm

6

tuyên, nguyên ,

7

tuyển, nguyễn, tuyết, nhồm nhoàm, thoăn thoắt, khòng khoèo, choắt cheo, khúc khuỷu, khuya khoắt
Từ những nhận xét trên, tất cả chúng ta hoàn toàn có thể rút ra một số ít nguyên tắc chính khi soạn bài đọc :

Mỗi bài đọc chỉ giới thiệu một số loại khuôn vần nhất định
Đi từ khuôn vần dễ đến loại vần khó
Mỗi khuôn vần càng có nhiều ví dụ chừng nào càng tốt chừng ấy

* * *
Nói thêm : Về giải pháp dạy đọc, thật ra, còn nhiều yếu tố để bàn, như tiến trình giảng dạy, cách soạn bài làm và bài tập, cách nhìn nhận, v.v… Tuy nhiên, những yếu tố ấy quá chi tiết cụ thể và quá trình độ. Tôi xin tạm gác lại. Loạt bài này xin chấm hết ở đây .
[ 1 ] Một số người hoàn toàn có thể nêu lên một số lượng nhiều hơn khoảng chừng vài chục vần, gồm có cả phương ngữ cũng như một số ít vần rất hiếm, chỉ Open trong một hoặc vài trường hợp không đáng kể. Danh sách vần này tôi lấy từ cuốn Từ điển vần của Hoàng Phê, nxb Thành Phố Đà Nẵng, 1996, tr. III .

Rate this post