BÀI 3: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

hjkh

I. KHÁI QUÁT VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1 Khái quát về hệ thống chính trị
1.1.1 Khái niệm hệ thống chính trị

Chính trị hiểu theo nghĩa chung nhất là một lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, bao gồm các hoạt động và các mối quan hệ giữa các chủ thể trong đời sống xã hội liên quan đến việc nhận diện và giải quyết các vấn đề chung của toàn xã hội, nhất là những vấn đề có tính tranh chấp, xung đột mang tính phổ biến trong các mối quan hệ xã hội. Để có thể giải quyết được các vấn đề trên, một quyền lực chung được thiết lập có sức mạnh cưỡng chế nhằm duy trì trật tự, hòa bình và công lý trong xã hội, đảm bảo các quyền, tự do của công dân. Nhà nước được tổ chức để thực thi quyền lực này. Do vậy, quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ Nhân dân.

Trong các xã hội có giai cấp, các giai cấp tùy vào khả năng và tương quan lực lượng của mình đều tìm cách để giành quyền lực nhà nước để hiện thực hóa lợi ích của giai cấp mình, trên cơ sở và nhân danh thực hiện mục tiêu chung của xã hội. Chính vì vậy, ở cách tiếp cận này, chính trị được khái quát là quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp trong việc giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước.

Từ đó có thể hiểu, hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị hợp pháp trong xã hội, bao gồm các Đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội được liên kết với nhau trong một hệ thống cấu trúc, chức năng với các cơ chế vận hành và mối quan hệ giữa chúng nhằm thực thi quyền lực chính trị.
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trị
Trong xã hội có giai cấp, các chủ thể chính trị được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức, nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã hội; củng cố, duy trì và phát triển chế độ chính trị phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền, đồng thời thực hiện lợi ích của các chủ thể khác ở mức độ nhất định.

– Tính quyền lực: Hệ thống chính trị của bất kỳ chế độ, xã hội nào cũng là hệ thống tổ chức phân bổ và thực thi quyền lực chính trị của các chủ thể, lực lượng trong xã hội. Chẳng hạn, bên cạnh chủ thể nắm giữ và thực thi quyền lực nhà nước, còn có các chủ thể khác tham gia, tác động đến việc thực thi quyền lực nhà nước theo những cách thức nhất định, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của mình trong xã hội.

– Tính vượt trội: Hệ thống chính trị được xác lập và hoạt động theo các thể chế, luật lệ và cơ chế nhằm tạo ra sức mạnh, tính vượt trội của hệ thống. Theo đó, những tương tác có hại làm triệt tiêu động lực và kết quả hoạt động của nhau sẽ bị hạn chế, ngăn chặn, đồng thời cho phép và khuyến khích những tương tác mang tính hỗ trợ, hợp tác nhằm đạt được kết quả tốt nhất cho các bên và cho xã hội.

1.1.3. Cấu trúc của hệ thống chính trị

– Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị (hợp pháp) thực thi những chức năng nhất định trong xã hội, gồm có:
+ Đảng chính trị: Đảng cầm quyền là lực lượng chủ yếu thực thi quyền lực nhà nước, quyết định chính sách quốc gia. Các đảng khác (trong mô hình hệ thống chính trị có nhiều đảng) đóng vai trò hợp tác, tham gia phản biện, giám sát, kể cả tìm cách hạn chế, ngăn cản hoạt động của đảng cầm quyền nhằm bảo vệ lợi ích của đảng mình.

+ Nhà nước: được cấu thành bởi 3 cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ba cơ quan này thực thi quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước khác với quyền lực của các tổ chức chính trị khác ở tính “độc quyền cưỡng chế hợp pháp”.

+ Các tổ chức chính trị – xã hội: là những tổ chức của công dân được lập ra nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định, có thể tác động đến việc thực hiện quyền lực của Đảng cầm quyền, Nhà nước để bảo vệ lợi ích của tổ chức mình và lợi ích của các thành viên. Mức độ sự tác động này phụ thuộc vào vị trí, khả năng, nguồn lực của tổ chức đó trong xã hội.

– Sự tương tác của các thể chế chính trị

Sự tương tác của các thể chế chính trị theo các cơ chế và mối quan hệ đã được xác lập, chủ yếu trên cơ sở của luật pháp. Theo đó, các tổ chức này có sự liên kết tương hỗ, hỗ trợ hoặc đối trọng, ngăn cản nhau trong các quá trình nhất định nhằm thực thi quyền lực chính trị, đạt được mục đích chung của hệ thống và xã hội cũng như lợi ích của các tổ chức thành viên của hệ thống chính trị. 

Chẳng hạn, trong hệ thống chính trị, các đảng chính trị thường đề ra cương lĩnh, mục tiêu, đường lối phát triển đất nước để vận động, thuyết phục Nhân dân ủng hộ, bỏ phiếu nhằm giành được đủ phiếu bầu trở thành đảng cầm quyền hoặc đảng đối lập có vị trí trong bộ máy nhà nước.

Khi trở thành đảng cầm quyền, đảng cầm quyền sẽ thể chế hóa cương lĩnh, mục tiêu, đường lối chính trị của đảng thành luật pháp, chương trình, dự án, chính sách và tổ chức thực hiện. Các đảng đối lập và các tổ chức chính trị – xã hội, phương tiện truyền thông có thể tham gia vào quá trình này để giám sát, phản biện chính sách của đảng cầm quyền tùy theo vị trí, nguồn lực mà họ có, nhằm làm tăng tính cẩn trọng, hợp lý của chính sách được ban hành hoặc phản đối, ngăn cản chính sách nhằm bảo vệ lợi ích của mình hoặc của người dân và xã hội theo quan điểm của họ.

1.2. Khái quát về hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay
1.2.1. Các thành tố trong hệ thống chính trị Việt Nam

Hệ thống chính trị Việt Nam gồm có:

– Đảng Cộng sản Việt Nam

– Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

– Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội gồm có: Công đoàn Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam.

Trong hệ thống chính trị Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là một tổ chức thành viên của Mặt trận, vừa là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, là hạt nhân của hệ thống chính trị; Nhà nước là trung tâm của hệ thống chính trị.

Thuật ngữ “hệ thống chính trị” được chính thức sử dụng ở Việt Nam từ Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (1989). Việc chuyển từ “hệ thống chuyên chính vô sản” sang “hệ thống chính trị” có ý nghĩa nhấn mạnh đến sự tương tác, hợp tác của các chủ thể trong đời sống chính trị – xã hội, nhằm tạo nên sức mạnh hợp lực của toàn hệ thống và khả năng thích nghi của hệ thống với những thay đổi của môi trường xã hội.

1.2.2. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của các thành tố trong hệ thống chính trị Việt Nam

* Đảng Cộng sản Việt Nam:

Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị, đồng thời là hạt nhân lãnh đạo của toàn bộ hệ thống chính trị.

Ðảng Cộng sản Việt Nam là Ðảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Chức năng lãnh đạo của Đảng thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau: Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, chủ trương phát triển kinh tế, xã hội; đồng thời Đảng là người lãnh đạo và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng.

Đảng tổ chức, thực hiện tuyên truyền, thuyết phục, vận động các tổ chức và xã hội ủng hộ, thực hiện đường lối, chủ chương của Đảng.

Ðảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Ðảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua việc thực hiện, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên.  

* Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân

Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.

Quốc hội được toàn thể Nhân dân bầu ra theo hình thức phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ 5 năm. Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng Quốc phòng và an ninh, Hội đồng Bầu cử quốc gia.

Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.

Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.

Chính phủ là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.

Chính phủ gồm Thủ tướng chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cơ cấu, số lượng thành viên chính phủ do Quốc hội quyết định.

Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu ra là người đứng đầu Chính phủ. Chịu trách nhiệm trước Quốc hội và hoạt động của Chính phủ và những nhiệm vụ được giao.

Chính phủ thực hiện chức năng hành pháp, “tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước”, thống nhất quản lý về các lĩnh vực, ngành và nền hành chính quốc gia. 

Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử thực hiện quyền tư pháp. Tòa án gồm Tòa án nhân dân được thành lập từ cấp trung ương đến cấp huyện và các tòa án khác do luật định.

Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Tòa án xét xử độc lập chỉ tuân theo pháp luật. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm; thực hiện chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm.

Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân là bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.

Chính quyền địa phương

Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt theo luật định.

– “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”

Hội đồng nhân dân có hai chức năng cơ bản là: (1) quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; (2) giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân.

– “Ủy ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên”

Ủy ban nhân dân có 3 chức năng chính: (1) Tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; (2) Tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân; (3) Thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao.

* Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội:

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có tên gọi ban đầu là Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo, được thành lập ngày 18/11/1930.

Từ khi được thành lập đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng và cùng trải qua các thời kỳ hoạt động cách mạng với những tên gọi khác nhau, Mặt trận là tổ chức tập hợp, phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết dân tộc của Việt Nam – một nhân tố quan trọng góp phần quyết định vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Kế tục và phát huy vai trò lịch sử của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam các thời kỳ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày nay vẫn tiếp tục đại diện cho lợi ích, tiếng nói rộng rãi của các nhóm xã hội, các giai cấp, tầng lớp nhân dân, tạo sự đoàn kết, đồng thuận xã hội, huy động nguồn lực, sức mạnh của toàn thể nhân dân vào xây dựng đảng, chính quyền, xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò tập hợp, thu hút các tầng lớp Nhân dân, các tổ chức chính trị – xã hội; tuyên truyền động viên Nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật; phản biện xã hội đối với dự thảo chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tập hợp ý kiến, kiến nghị của Nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước; tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân; cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền với lợi ích chính đáng của Nhân dân; tham gia phát triển tình hữu nghị, hợp tác giữa Nhân dân Việt Nam với Nhân dân các nước trong khu vực và trên thế giới.

Các tổ chức chính trị – xã hội bao gồm: “Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên, tổ chức của mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”

Mặt trận và các tổ chức chính trị – xã hội là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên. Ðảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là tổ chức lãnh đạo Mặt trận.

– Công đoàn Việt Nam

Công đoàn Việt Nam được thành lập ngày 28/7/1929. Trải qua quá trình hình thành và phát triển, tổ chức Công đoàn Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng vào công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, giải phóng giai cấp, trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Hiến pháp 2013 quy định: “Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người dân lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế – xã hội: tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Công đoàn Việt Nam là thành viên của hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, có quan hệ hợp tác với Nhà nước và phối hợp với các tổ chức chính trị – xã hội và các tổ chức xã hội khác; hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

– Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam

Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (thành lập ngày 20/10/1930) là tổ chức chính trị – xã hội trong hệ thống chính trị, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam; phấn đấu vì sự phát triển, tiến bộ của phụ nữ và bình đẳng giới. Hội là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thành viên của Liên đoàn các tổ chức phụ nữ ASEAN.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam từ khi thành lập đến nay đã đoàn kết, vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ, phát huy truyền thống yêu nước, anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang, góp phần tích cực, quan trọng vào sự nghiệp giải phóng đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã có sự phát triển mạnh trong việc tổ chức, thu hút hội viên; có những mô hình liên kết, hỗ trợ thiết thực, sáng tạo cho sự phát triển của các hội viên, tham gia xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế gia đình và đặc biệt đóng góp những ý kiến phản biện, đề xuất chính sách cho Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của phụ nữ, trẻ em và thực hiện những hoạt động cho sự phát triển, bình đẳng giới của phụ nữ Việt Nam

– Hội Nông dân Việt Nam

 Hội Nông dân Việt Nam (thành lập ngày 14/10/1930) là tổ chức chính trị – xã hội của nông dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ sở chính trị của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trong bối cảnh hiện nay, mục đích của Hội là tập hợp đoàn kết nông dân, tạo diễn đàn chia sẻ thông tin và tri thức trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, tạo sự kết nối, hỗ trợ giữa các hội viên, đồng thời đại diện và bảo vệ cho quyền, lợi ích chính đáng của hội viên trong quan hệ với các chủ thể khác của đời sống xã hội. Từ đó, tạo sự đồng thuận, sức mạnh của tổ chức, xứng đáng là lực lượng đồng minh tin cậy trong khối liên minh công, nông, trí, bảo đảm thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng và phát triển nông dân, nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ mới.

– Hội Cựu chiến binh Việt Nam

Hội Cựu chiến binh Việt Nam (thành lập ngày 06/12/1989) là một tổ chức chính trị – xã hội, thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là một cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, một tổ chức trong hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, hoạt động theo đường lối, chủ trương của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước và Điều lệ của Hội.

Mục đích của Hội là tập hợp, đoàn kết, tổ chức, động viên các thế hệ Cựu chiến binh giữ gìn và phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền lợi ích chính đáng và hợp pháp của cựu chiến binh, chăm lo giúp đỡ nhau trong cuộc sống, gắn bó tình bạn chiến đấu.

– Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh

Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh (thành lập ngày 26/3/1931) là tổ chức chính trị – xã hội của thanh niên Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Đoàn bao gồm những thanh niên tiên tiến, phấn đấu vì mục đích, lý tưởng của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là thành viên của hệ thống chính trị, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đảng lãnh đạo công tác thanh niên và trực tiếp lãnh đạo Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Xây dựng Đoàn vững mạnh là nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, là xây dựng Đảng trước một bước. Nhà nước quản lý thanh niên và công tác thanh niên; thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng về thanh niên và công tác thanh niên thành pháp luật, chính sách, chiến lược, chương trình hành động và cụ thể hoá trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh hằng năm của các cấp, các ngành. Đoàn phối hợp với các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể, tổ chức kinh tế, xã hội, các tập thể lao động và gia đình chăm lo giáo dục, đào tạo và bảo vệ thanh thiếu nhi; tổ chức cho đoàn viên, thanh niên tích cực tham gia vào việc quản lý nhà nước và xã hội.

Đoàn giữ vai trò nòng cốt chính trị trong việc xây dựng tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam và các thành viên khác của hội. Đối với Đội Thiếu niên tiền phong, Đoàn giữ vai trò là người phụ trách xây dựng tổ chức Đội.

Tóm lại, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên tuân theo Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện các nhiệm vụ sau:

 1) Thực hiện Hiến pháp, pháp luật, Điều lệ, Chương trình hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Quy chế phối hợp và thống nhất hành động giữa các tổ chức thành viên trong Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp; các chương trình phối hợp giữa Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên với cơ quan nhà nước cùng cấp có liên quan.

2) Tập hợp ý kiến, kiến nghị của thành viên, đảng viên, đoàn viên, hội viên, Nhân dân và kết quả thực hiện chương trình phối hợp và thống nhất hành động gửi Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp.

3) Tuyên truyền, vận động thành viên, đảng viên, đoàn viên, hội viên, Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật, thực hiện Chương trình hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

4) Vận động các thành viên, đảng viên, đoàn viên, hội viên của tổ chức mình thực hiện đúng chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc.

5) Giám sát, phản biện xã hội.

6) Đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ những tổ chức, cá nhân chưa gia nhập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhưng có tinh thần hưởng ứng, ủng hộ, thực hiện Chương trình hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

7) Tham gia thực hiện các nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

1.2.3. Mối quan hệ giữa các thành tố trong hệ thống chính trị

Các quan hệ trong hệ thống chính trị Việt Nam, các quan hệ chính trị được xác lập theo một cơ chế chủ đạo là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ.

Toàn bộ hoạt động của hệ thống chính trị đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thông qua bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội của Nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện vai trò, chức năng lãnh đạo đối với toàn xã hội, nhằm phát huy và thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân.

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Quyền lực của Nhà nước là quyền lực của Nhân dân giao cho để phục vụ Nhân dân. Nhà nước thể chế hóa đường lối, mục tiêu, chủ trương lãnh đạo của Đảng thành pháp luật, chính sách của Nhà nước và tổ chức thực hiện.

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội đại diện cho lợi ích rộng rãi của các giai cấp, tầng lớp xã hội, của toàn thể Nhân dân lao động và yêu nước Việt Nam, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Tuỳ theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã được xác định, các tổ chức vận động, giáo dục đoàn viên, hội viên chấp hành luật pháp, chính sách; đồng thời chăm lo, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên; giúp đoàn viên, hội viên nâng cao trình độ về mọi mặt và xây dựng cuộc sống mới; tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Mọi hành vi lợi dụng dân chủ, lợi dụng quyền lập hội để chống phá Đảng, chính quyền nhân dân, đi ngược lại lợi ích của Nhân dân và dân tộc đều vi phạm pháp luật Việt Nam và bị xử lý theo pháp luật.

Đảng, Nhà nước, cấp ủy và chính quyền địa phương tôn trọng tính tự chủ, tự nguyện, ủng hộ và tạo mọi điều kiện để Mặt trận và các tổ chức chính trị – xã hội hoạt động tích cực, sáng tạo đóng góp cho Đảng, chính quyền và đất nước, mang lại lợi ích cho Nhân dân. Đảng, chính quyền lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các tổ chức chính trị – xã hội. Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các tổ chức chính trị – xã hội hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội.

Trong hệ thống chính trị, các bộ phận cấu thành đều có chung một mục đích là duy trì và đại diện cho quyền lực và lợi ích của giai cấp và dân tộc. Cả hệ thống chính trị Việt Nam đều có chung một mục tiêu là phấn đấu vì một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhấn mạnh: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Mặt trận và các đoàn thể chính trị – xã hội góp phần quan trọng trong việc thực hiện cương lĩnh, mục tiêu, phương hướng chính trị của Đảng cầm quyền và Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Mặt trận và các đoàn thể chính trị – xã hội góp phần bảo đảm sức mạnh của hệ thống chính trị. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quyết định việc tập hợp lực lượng nhân dân, tổ chức các phong trào nhân dân và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
Cơ chế và các nguyên tắc vận hành 
Hệ thống chính trị Việt Nam hoạt động theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ.
Hệ thống chính trị Việt Nam hoạt động theo những nguyên tắc phổ biến của hệ thống chính trị nói chung như: nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân; nguyên tắc ủy quyền có điều kiện và có thời hạn; nguyên tắc pháp quyền. Ngoài ra hệ thống chính trị Việt Nam hoạt động theo những nguyên tắc riêng như: tập trung dân chủ, lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách. Nguyên tắc quyền lực nhà nước là tập trung thống nhất, không phân chia, nhưng có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

1.2.4. Đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam

Hệ thống chính trị Việt Nam cũng được tổ chức theo những mô hình phổ biến của hệ thống chính trị các nước trên thế giới. Mặt khác hệ thống chính trị Việt Nam cũng có những đặc điểm riêng.

Thứ nhất, hệ thống chính trị Việt Nam do duy nhất một Đảng Cộng sản lãnh đạo. Không tồn tại các đảng chính trị đối lập. Đặc điểm này thể hiện tính phổ biến của hệ thống chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa, vừa thể hiện tính đặc thù xuất phát từ điều kiện thực tế cụ thể ở Việt Nam. Bởi vì, ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã được sự tín nhiệm của Nhân dân, được Nhân dân ủng hộ, tôn vinh ở vị trí lãnh đạo và thực tế Đảng đã xứng đáng với vị trí được tôn vinh này

Thứ hai, hệ thống chính trị Việt Nam là hệ thống chính trị được xây dựng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, có tham khảo kinh nghiệm của thế giới. Toàn bộ hệ thống chính trị đều được tổ chức và hoạt động trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta xác định “Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng”.

Thứ ba, do lịch sử hình thành gắn với các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên do Đảng thành lập và lãnh đạo, có mối quan hệ gắn bó, mật thiết với Đảng và Nhà nước. Các tổ chức thành viên của hệ thống chính trị đều do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập: Nhà nước là hình thức tổ chức quyền lực của Nhân dân – do Đảng lập ra. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội do Đảng sáng lập có nhiệm vụ chính trị là tổ chức tập hợp, đoàn kết quần chúng, đại diện ý chí và nguyện vọng của quần chúng.

Thứ tư, hệ thống chính trị Việt Nam là một hệ thống mang tính thống nhất và tập trung quyền lực. Tính thống nhất của hệ thống chính trị xuất phát từ nguồn gốc quyền lực của nhân nhân ủy quyền cho Đảng, Nhà nước để thực hiện mục đích chung. Mục đích chính trị của toàn bộ hệ thống là: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam và mục tiêu cụ thể được xác định là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 

Thứ năm, trong hệ thống chính trị Việt Nam, các thành viên có địa vị pháp lý vững chắc. Do vị trí, chức năng của mỗi thành viên trong hệ thống chính trị được quy định trong Hiến pháp và các đạo luật, như: Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Công đoàn, Luật Thanh niên…Chính trị hiểu theo nghĩa chung nhất là một nghành nghề dịch vụ hoạt động giải trí của đời sống xã hội, gồm có những hoạt động giải trí và những mối quan hệ giữa những chủ thể trong đời sống xã hội tương quan đến việc nhận diện và xử lý những yếu tố chung của toàn xã hội, nhất là những yếu tố có tính tranh chấp, xung đột mang tính phổ cập trong những mối quan hệ xã hội. Để hoàn toàn có thể xử lý được những yếu tố trên, một quyền lực tối cao chung được thiết lập có sức mạnh cưỡng chế nhằm mục đích duy trì trật tự, tự do và công lý trong xã hội, bảo vệ những quyền, tự do của công dân. Nhà nước được tổ chức triển khai để thực thi quyền lực tối cao này. Do vậy, quyền lực tối cao nhà nước có nguồn gốc từ Nhân dân. Trong những xã hội có giai cấp, những giai cấp tùy vào năng lực và đối sánh tương quan lực lượng của mình đều tìm cách để giành quyền lực tối cao nhà nước để hiện thực hóa quyền lợi của giai cấp mình, trên cơ sở và nhân danh triển khai tiềm năng chung của xã hội. Chính thế cho nên, ở cách tiếp cận này, chính trị được khái quát là quan hệ giữa những giai cấp, những những tầng lớp trong việc giành, giữ và thực thi quyền lực tối cao nhà nước. Từ đó hoàn toàn có thể hiểu, hệ thống chính trị là một chỉnh thể những tổ chức triển khai chính trị hợp pháp trong xã hội, gồm có những Đảng chính trị, Nhà nước và những tổ chức triển khai chính trị – xã hội được link với nhau trong một hệ thống cấu trúc, công dụng với những chính sách quản lý và vận hành và mối quan hệ giữa chúng nhằm mục đích thực thi quyền lực tối cao chính trị. 1.1.2. Đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trịTrong xã hội có giai cấp, những chủ thể chính trị được link với nhau trong một hệ thống tổ chức triển khai, nhằm mục đích tác động ảnh hưởng vào những quy trình của đời sống xã hội ; củng cố, duy trì và tăng trưởng chính sách chính trị tương thích với quyền lợi của giai cấp cầm quyền, đồng thời triển khai quyền lợi của những chủ thể khác ở mức độ nhất định. – Tính quyền lực tối cao : Hệ thống chính trị của bất kể chính sách, xã hội nào cũng là hệ thống tổ chức triển khai phân chia và thực thi quyền lực tối cao chính trị của những chủ thể, lực lượng trong xã hội. Chẳng hạn, bên cạnh chủ thể nắm giữ và thực thi quyền lực tối cao nhà nước, còn có những chủ thể khác tham gia, ảnh hưởng tác động đến việc thực thi quyền lực tối cao nhà nước theo những phương pháp nhất định, nhằm mục đích bảo vệ quyền và quyền lợi của mình trong xã hội. – Tính tiêu biểu vượt trội : Hệ thống chính trị được xác lập và hoạt động giải trí theo những thể chế, luật lệ và chính sách nhằm mục đích tạo ra sức mạnh, tính tiêu biểu vượt trội của hệ thống. Theo đó, những tương tác có hại làm triệt tiêu động lực và hiệu quả hoạt động giải trí của nhau sẽ bị hạn chế, ngăn ngừa, đồng thời được cho phép và khuyến khích những tương tác mang tính tương hỗ, hợp tác nhằm mục đích đạt được hiệu quả tốt nhất cho những bên và cho xã hội. – Hệ thống chính trị là một chỉnh thể những tổ chức triển khai chính trị ( hợp pháp ) thực thi những tính năng nhất định trong xã hội, gồm có : + Đảng chính trị : Đảng cầm quyền là lực lượng đa phần thực thi quyền lực tối cao nhà nước, quyết định hành động chủ trương vương quốc. Các đảng khác ( trong quy mô hệ thống chính trị có nhiều đảng ) đóng vai trò hợp tác, tham gia phản biện, giám sát, kể cả tìm cách hạn chế, ngăn cản hoạt động giải trí của đảng cầm quyền nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của đảng mình. + Nhà nước : được cấu thành bởi 3 cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ba cơ quan này thực thi quyền lực tối cao nhà nước. Quyền lực nhà nước khác với quyền lực tối cao của những tổ chức triển khai chính trị khác ở tính “ độc quyền cưỡng chế hợp pháp ”. + Các tổ chức triển khai chính trị – xã hội : là những tổ chức triển khai của công dân được lập ra nhằm mục đích thực thi một tiềm năng nhất định, hoàn toàn có thể tác động ảnh hưởng đến việc thực thi quyền lực tối cao của Đảng cầm quyền, Nhà nước để bảo vệ quyền lợi của tổ chức triển khai mình và quyền lợi của những thành viên. Mức độ sự ảnh hưởng tác động này nhờ vào vào vị trí, năng lực, nguồn lực của tổ chức triển khai đó trong xã hội. – Sự tương tác của những thể chế chính trịSự tương tác của những thể chế chính trị theo những chính sách và mối quan hệ đã được xác lập, đa phần trên cơ sở của pháp luật. Theo đó, những tổ chức triển khai này có sự link tương hỗ, tương hỗ hoặc đối trọng, ngăn cản nhau trong những quy trình nhất định nhằm mục đích thực thi quyền lực tối cao chính trị, đạt được mục tiêu chung của hệ thống và xã hội cũng như quyền lợi của những tổ chức triển khai thành viên của hệ thống chính trị. Chẳng hạn, trong hệ thống chính trị, những đảng chính trị thường đề ra cương lĩnh, tiềm năng, đường lối tăng trưởng quốc gia để hoạt động, thuyết phục Nhân dân ủng hộ, bỏ phiếu nhằm mục đích giành được đủ phiếu bầu trở thành đảng cầm quyền hoặc đảng trái chiều có vị trí trong cỗ máy nhà nước. Khi trở thành đảng cầm quyền, đảng cầm quyền sẽ thể chế hóa cương lĩnh, tiềm năng, đường lối chính trị của đảng thành pháp luật, chương trình, dự án Bất Động Sản, chủ trương và tổ chức triển khai thực thi. Các đảng trái chiều và những tổ chức triển khai chính trị – xã hội, phương tiện đi lại truyền thông online hoàn toàn có thể tham gia vào quy trình này để giám sát, phản biện chủ trương của đảng cầm quyền tùy theo vị trí, nguồn lực mà họ có, nhằm mục đích làm tăng tính thận trọng, hài hòa và hợp lý của chủ trương được phát hành hoặc phản đối, ngăn cản chủ trương nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của mình hoặc của người dân và xã hội theo quan điểm của họ. Hệ thống chính trị Nước Ta gồm có : – Đảng Cộng sản Việt Nam – Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và những tổ chức triển khai chính trị – xã hội gồm có : Công đoàn Nước Ta, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Nước Ta, Hội Cựu chiến binh Nước Ta, Hội Nông dân Nước Ta. Trong hệ thống chính trị Nước Ta, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là một tổ chức triển khai thành viên của Mặt trận, vừa là lực lượng chỉ huy Nhà nước và xã hội, là hạt nhân của hệ thống chính trị ; Nhà nước là TT của hệ thống chính trị. Thuật ngữ “ hệ thống chính trị ” được chính thức sử dụng ở Nước Ta từ Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI ( 1989 ). Việc chuyển từ “ hệ thống chuyên chính vô sản ” sang “ hệ thống chính trị ” có ý nghĩa nhấn mạnh vấn đề đến sự tương tác, hợp tác của những chủ thể trong đời sống chính trị – xã hội, nhằm mục đích tạo nên sức mạnh hợp lực của toàn hệ thống và năng lực thích nghi của hệ thống với những biến hóa của môi trường tự nhiên xã hội. * Đảng Cộng sản Việt Nam : Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiên phong của giai cấp công nhân Nước Ta, đại biểu trung thành với chủ quyền lợi của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc bản địa. Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị, đồng thời là hạt nhân chỉ huy của hàng loạt hệ thống chính trị. Ðảng Cộng sản Việt Nam là Ðảng cầm quyền, chỉ huy Nhà nước và xã hội. Chức năng chỉ huy của Đảng bộc lộ trên những nội dung hầu hết sau : Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, kế hoạch, chủ trương tăng trưởng kinh tế tài chính, xã hội ; đồng thời Đảng là người chỉ huy và tổ chức triển khai thực thi Cương lĩnh, đường lối của Đảng. Đảng tổ chức triển khai, thực thi tuyên truyền, thuyết phục, hoạt động những tổ chức triển khai và xã hội ủng hộ, thực thi đường lối, chủ chương của Đảng. Ðảng thống nhất chỉ huy công tác làm việc cán bộ và quản trị đội ngũ cán bộ, ra mắt những đảng viên xuất sắc ưu tú có đủ năng lượng và phẩm chất vào hoạt động giải trí trong những cơ quan chỉ huy của hệ thống chính trị. Ðảng chỉ huy trải qua tổ chức triển khai đảng và đảng viên hoạt động giải trí trong những tổ chức triển khai của hệ thống chính trị. Đảng chỉ huy trải qua việc thực thi, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. * Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam : Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân [ 1 ]. Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị Nước Ta. Nhà nước gồm những có những cơ quan TW như Quốc hội, nhà nước, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và chính quyền sở tại địa phương. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội triển khai quyền lập hiến, lập pháp, quyết định hành động những yếu tố quan trọng của quốc gia và giám sát tối cao so với hoạt động giải trí của Nhà nước. Quốc hội được toàn thể Nhân dân bầu ra theo hình thức đại trà phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ 5 năm. Quốc hội bầu, không bổ nhiệm, bãi nhiệm quản trị nước, Phó quản trị nước, quản trị Quốc hội, Phó quản trị Quốc hội, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, quản trị Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng nhà nước, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, quản trị Hội đồng bầu cử vương quốc, Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội xây dựng ; phê chuẩn đề xuất chỉ định, không bổ nhiệm, không bổ nhiệm Phó Thủ tướng nhà nước, Bộ trưởng và thành viên khác của nhà nước, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ; phê chuẩn list thành viên Hội đồng Quốc phòng và bảo mật an ninh, Hội đồng Bầu cử vương quốc. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực thi quyền lập hiến, lập pháp, quyết định hành động những yếu tố quan trọng của quốc gia và giám sát tối cao so với hoạt động giải trí của Nhà nước. quản trị nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. quản trị nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. quản trị nước chịu nghĩa vụ và trách nhiệm và báo cáo giải trình công tác làm việc trước Quốc hội. nhà nước là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực thi quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. nhà nước chịu nghĩa vụ và trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo giải trình công tác làm việc trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quản trị nước. nhà nước gồm Thủ tướng cơ quan chính phủ, những Phó Thủ tướng nhà nước, những Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cơ cấu, số lượng thành viên cơ quan chính phủ do Quốc hội quyết định hành động. Thủ tướng nhà nước do Quốc hội bầu ra là người đứng đầu nhà nước. Chịu nghĩa vụ và trách nhiệm trước Quốc hội và hoạt động giải trí của nhà nước và những trách nhiệm được giao. nhà nước triển khai công dụng hành pháp, “ tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định hành động của quản trị nước ”, thống nhất quản trị về những nghành nghề dịch vụ, ngành và nền hành chính vương quốc. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử thực thi quyền tư pháp. Tòa án gồm Tòa án nhân dân được xây dựng từ cấp TW đến cấp huyện và những tòa án nhân dân khác do luật định. Tòa án nhân dân có trách nhiệm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chính sách xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và quyền lợi hợp pháp của tổ chức triển khai, cá thể. Tòa án xét xử độc lập chỉ tuân theo pháp lý. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo vệ ; thực thi chính sách xét xử xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. Viện kiểm sát nhân dân thực hành thực tế quyền công tố, kiểm sát hoạt động giải trí tư pháp. Nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân là bảo vệ pháp lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chính sách xã hội chủ nghĩa. Chính quyền địa phươngChính quyền địa phương được tổ chức triển khai ở những đơn vị chức năng hành chính. Cấp chính quyền sở tại địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức triển khai tương thích với đặc thù nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị chức năng hành chính – kinh tế tài chính đặc biệt quan trọng theo luật định. – “ Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện thay mặt cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu nghĩa vụ và trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên ” [ 2 ]. Nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân là 05 năm. Hội đồng nhân dân có hai công dụng cơ bản là : ( 1 ) quyết định hành động những yếu tố của địa phương do luật định ; ( 2 ) giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp lý ở địa phương và việc thực thi nghị quyết của Hội đồng nhân dân. – “ Ủy ban nhân dân ở cấp chính quyền sở tại địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu nghĩa vụ và trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên ” [ 3 ] Ủy ban nhân dân có 3 tính năng chính : ( 1 ) Tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp lý ở địa phương ; ( 2 ) Tổ chức triển khai nghị quyết của Hội đồng nhân dân ; ( 3 ) Thực hiện những trách nhiệm do cơ quan nhà nước cấp trên giao. * Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và những tổ chức triển khai chính trị – xã hội : Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức triển khai liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức triển khai chính trị, những tổ chức triển khai chính trị – xã hội, tổ chức triển khai xã hội và những cá thể tiêu biểu vượt trội trong những giai cấp, những tầng lớp xã hội, dân tộc bản địa, tôn giáo, người Nước Ta định cư ở quốc tế. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có tên gọi khởi đầu là Mặt trận Dân tộc thống nhất Nước Ta, do Đảng Cộng sản Việt Nam và quản trị Hồ Chí Minh sáng lập, chỉ huy, được xây dựng ngày 18/11/1930. Từ khi được xây dựng đến nay, dưới sự chỉ huy của Đảng và cùng trải qua những thời kỳ hoạt động giải trí cách mạng với những tên gọi khác nhau, Mặt trận là tổ chức triển khai tập hợp, phát huy niềm tin yêu nước, truyền thống lịch sử đoàn kết dân tộc bản địa của Nước Ta – một tác nhân quan trọng góp thêm phần quyết định hành động vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng giành độc lập dân tộc bản địa, thống nhất quốc gia, kiến thiết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kế tục và phát huy vai trò lịch sử dân tộc của Mặt trận Dân tộc thống nhất Nước Ta những thời kỳ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày này vẫn liên tục đại diện thay mặt cho quyền lợi, lời nói thoáng đãng của những nhóm xã hội, những giai cấp, những tầng lớp nhân dân, tạo sự đoàn kết, đồng thuận xã hội, kêu gọi nguồn lực, sức mạnh của toàn thể nhân dân vào kiến thiết xây dựng đảng, chính quyền sở tại, thiết kế xây dựng quốc gia theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa với tiềm năng dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công minh, văn minh. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền sở tại nhân dân. Mặt trận hoạt động giải trí theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành vi giữa những thành viên. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò tập hợp, lôi cuốn những những tầng lớp Nhân dân, những tổ chức triển khai chính trị – xã hội ; tuyên truyền động viên Nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực thi đường lối, chủ trương của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp lý ; phản biện xã hội so với dự thảo chủ trương của Đảng, chủ trương, pháp lý của Nhà nước, giám sát hoạt động giải trí của cơ quan nhà nước, tập hợp quan điểm, yêu cầu của Nhân dân để phản ánh, đề xuất kiến nghị với Đảng và Nhà nước ; tham gia thiết kế xây dựng và củng cố chính quyền sở tại nhân dân ; cùng Nhà nước chăm sóc, bảo vệ quyền với quyền lợi chính đáng của Nhân dân ; tham gia tăng trưởng tình hữu nghị, hợp tác giữa Nhân dân Nước Ta với Nhân dân những nước trong khu vực và trên quốc tế. Các tổ chức triển khai chính trị – xã hội gồm có : “ Công đoàn Nước Ta, Hội Nông dân Nước Ta, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Nước Ta, Hội Cựu chiến binh Nước Ta được xây dựng trên cơ sở tự nguyện, đại diện thay mặt và bảo vệ quyền, quyền lợi hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên, tổ chức triển khai của mình ; cùng những tổ chức triển khai thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành vi trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ” [ 4 ] Mặt trận và những tổ chức triển khai chính trị – xã hội là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền sở tại nhân dân, đại diện thay mặt cho quyền và quyền lợi hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, nơi bộc lộ ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành vi của những thành viên. Ðảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là tổ chức triển khai chỉ huy Mặt trận. – Công đoàn Việt NamCông đoàn Nước Ta được xây dựng ngày 28/7/1929. Trải qua quy trình hình thành và tăng trưởng, tổ chức triển khai Công đoàn Nước Ta đã có những góp phần quan trọng vào công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc bản địa, giải phóng giai cấp, trong công cuộc thiết kế xây dựng và tăng trưởng quốc gia. Hiến pháp 2013 pháp luật : “ Công đoàn Nước Ta là tổ chức triển khai chính trị – xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được xây dựng trên cơ sở tự nguyện, đại diện thay mặt cho người dân lao động, chăm sóc và bảo vệ quyền, quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người lao động, tham gia quản trị nhà nước, quản trị kinh tế tài chính – xã hội : tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động giải trí của cơ quan nhà nước, tổ chức triển khai, đơn vị chức năng, doanh nghiệp về những yếu tố tương quan đến quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của người lao động ; tuyên truyền, hoạt động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp lý, thiết kế xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [ 5 ] Công đoàn Nước Ta là thành viên của hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ huy, có quan hệ hợp tác với Nhà nước và phối hợp với những tổ chức triển khai chính trị – xã hội và những tổ chức triển khai xã hội khác ; hoạt động giải trí trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp lý của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. – Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt NamHội Liên hiệp Phụ nữ Nước Ta ( xây dựng ngày 20/10/1930 ) là tổ chức triển khai chính trị – xã hội trong hệ thống chính trị, đại diện thay mặt cho quyền và quyền lợi hợp pháp, chính đáng của những những tầng lớp phụ nữ Nước Ta ; phấn đấu vì sự tăng trưởng, tân tiến của phụ nữ và bình đẳng giới. Hội là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thành viên của Liên đoàn những tổ chức triển khai phụ nữ ASEAN.Dưới sự chỉ huy của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Nước Ta từ khi xây dựng đến nay đã đoàn kết, hoạt động, tập hợp thoáng đãng những những tầng lớp phụ nữ, phát huy truyền thống cuội nguồn yêu nước, anh hùng, quật cường, trung hậu, đảm đang, góp thêm phần tích cực, quan trọng vào sự nghiệp giải phóng quốc gia và kiến thiết xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hội Liên hiệp Phụ nữ Nước Ta đã có sự tăng trưởng mạnh trong việc tổ chức triển khai, lôi cuốn hội viên ; có những quy mô link, tương hỗ thiết thực, phát minh sáng tạo cho sự tăng trưởng của những hội viên, tham gia thiết kế xây dựng nông thôn mới, tăng trưởng kinh tế tài chính mái ấm gia đình và đặc biệt quan trọng góp phần những quan điểm phản biện, yêu cầu chủ trương cho Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ quyền, quyền lợi chính đáng của phụ nữ, trẻ nhỏ và thực thi những hoạt động giải trí cho sự tăng trưởng, bình đẳng giới của phụ nữ Nước Ta – Hội Nông dân Việt NamHội Nông dân Nước Ta ( xây dựng ngày 14/10/1930 ) là tổ chức triển khai chính trị – xã hội của nông dân Nước Ta do Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ huy và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ sở chính trị của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong toàn cảnh lúc bấy giờ, mục tiêu của Hội là tập hợp đoàn kết nông dân, tạo forum san sẻ thông tin và tri thức trong hoạt động giải trí sản xuất nông nghiệp, tạo sự liên kết, tương hỗ giữa những hội viên, đồng thời đại diện thay mặt và bảo vệ cho quyền, quyền lợi chính đáng của hội viên trong quan hệ với những chủ thể khác của đời sống xã hội. Từ đó, tạo sự đồng thuận, sức mạnh của tổ chức triển khai, xứng danh là lực lượng liên minh đáng tin cậy trong khối liên minh công, nông, trí, bảo vệ triển khai thắng lợi tiềm năng kiến thiết xây dựng và tăng trưởng nông dân, nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ mới. – Hội Cựu chiến binh Việt NamHội Cựu chiến binh Nước Ta ( xây dựng ngày 06/12/1989 ) là một tổ chức triển khai chính trị – xã hội, thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là một cơ sở chính trị của chính quyền sở tại nhân dân, một tổ chức triển khai trong hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ huy, hoạt động giải trí theo đường lối, chủ trương của Đảng, Hiến pháp, pháp lý của Nhà nước và Điều lệ của Hội. Mục đích của Hội là tập hợp, đoàn kết, tổ chức triển khai, động viên những thế hệ Cựu chiến binh giữ gìn và phát huy thực chất, truyền thống cuội nguồn “ Bộ đội Cụ Hồ ”, tích cực tham gia thiết kế xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng, thiết kế xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền sở tại, chính sách xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền lợi ích chính đáng và hợp pháp của cựu chiến binh, chăm sóc giúp sức nhau trong đời sống, gắn bó tình bạn chiến đấu. – Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí MinhĐoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh ( xây dựng ngày 26/3/1931 ) là tổ chức triển khai chính trị – xã hội của người trẻ tuổi Nước Ta do Đảng Cộng sản Việt Nam và quản trị Hồ Chí Minh sáng lập, chỉ huy và rèn luyện. Đoàn gồm có những người trẻ tuổi tiên tiến và phát triển, phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng là độc lập dân tộc bản địa gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công minh, văn minh. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là thành viên của hệ thống chính trị, hoạt động giải trí trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đảng chỉ huy công tác làm việc người trẻ tuổi và trực tiếp chỉ huy Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Xây dựng Đoàn vững mạnh là nội dung quan trọng trong công tác làm việc thiết kế xây dựng Đảng, là kiến thiết xây dựng Đảng trước một bước. Nhà nước quản trị người trẻ tuổi và công tác làm việc người trẻ tuổi ; thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng về người trẻ tuổi và công tác làm việc người trẻ tuổi thành pháp lý, chủ trương, kế hoạch, chương trình hành vi và cụ thể hoá trong những chương trình, kế hoạch tăng trưởng kinh tế tài chính – xã hội, bảo vệ quốc phòng, bảo mật an ninh hằng năm của những cấp, những ngành. Đoàn phối hợp với những cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, những đoàn thể, tổ chức triển khai kinh tế tài chính, xã hội, những tập thể lao động và mái ấm gia đình chăm sóc giáo dục, huấn luyện và đào tạo và bảo vệ thanh mần nin thiếu nhi ; tổ chức triển khai cho đoàn viên, người trẻ tuổi tích cực tham gia vào việc quản trị nhà nước và xã hội. Đoàn giữ vai trò nòng cốt chính trị trong việc thiết kế xây dựng tổ chức triển khai và hoạt động giải trí của Hội Liên hiệp người trẻ tuổi Nước Ta, Hội Sinh viên Nước Ta và những thành viên khác của hội. Đối với Đội Thiếu niên tiền phong, Đoàn giữ vai trò là người đảm nhiệm thiết kế xây dựng tổ chức triển khai Đội. Tóm lại, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và những tổ chức triển khai thành viên tuân theo Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực thi những trách nhiệm sau : 1 ) Thực hiện Hiến pháp, pháp lý, Điều lệ, Chương trình hành vi của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Quy chế phối hợp và thống nhất hành vi giữa những tổ chức triển khai thành viên trong Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp ; những chương trình phối hợp giữa Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, những tổ chức triển khai thành viên với cơ quan nhà nước cùng cấp có tương quan. 2 ) Tập hợp quan điểm, đề xuất kiến nghị của thành viên, đảng viên, đoàn viên, hội viên, Nhân dân và hiệu quả triển khai chương trình phối hợp và thống nhất hành vi gửi Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp. 3 ) Tuyên truyền, hoạt động thành viên, đảng viên, đoàn viên, hội viên, Nhân dân thực thi Hiến pháp và pháp lý, triển khai Chương trình hành vi của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. 4 ) Vận động những thành viên, đảng viên, đoàn viên, hội viên của tổ chức triển khai mình thực thi đúng chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc bản địa. 5 ) Giám sát, phản biện xã hội. 6 ) Đoàn kết, hợp tác, giúp sức những tổ chức triển khai, cá thể chưa gia nhập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhưng có niềm tin hưởng ứng, ủng hộ, thực thi Chương trình hành vi của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. 7 ) Tham gia thực thi những trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Các quan hệ trong hệ thống chính trị Nước Ta, những quan hệ chính trị được xác lập theo một chính sách chủ yếu là : Đảng chỉ huy, Nhà nước quản trị, Nhân dân làm chủ. Toàn bộ hoạt động giải trí của hệ thống chính trị đều đặt dưới sự chỉ huy của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thông qua cỗ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và những đoàn thể chính trị – xã hội của Nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam triển khai vai trò, công dụng chỉ huy so với toàn xã hội, nhằm mục đích phát huy và triển khai quyền làm chủ của Nhân dân. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Quyền lực của Nhà nước là quyền lực tối cao của Nhân dân giao cho để ship hàng Nhân dân. Nhà nước thể chế hóa đường lối, tiềm năng, chủ trương chỉ huy của Đảng thành pháp lý, chủ trương của Nhà nước và tổ chức triển khai thực thi. Mặt trận Tổ quốc và những tổ chức triển khai chính trị – xã hội đại diện thay mặt cho quyền lợi thoáng rộng của những giai cấp, những tầng lớp xã hội, của toàn thể Nhân dân lao động và yêu nước Nước Ta, là cơ sở chính trị của chính quyền sở tại nhân dân. Mặt trận Tổ quốc và những tổ chức triển khai chính trị – xã hội hoạt động giải trí dưới sự chỉ huy của Đảng, trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp lý. Tuỳ theo đặc thù, tôn chỉ và mục tiêu đã được xác lập, những tổ chức triển khai hoạt động, giáo dục đoàn viên, hội viên chấp hành pháp luật, chủ trương ; đồng thời chăm sóc, bảo vệ những quyền và quyền lợi hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên ; giúp đoàn viên, hội viên nâng cao trình độ về mọi mặt và kiến thiết xây dựng đời sống mới ; tham gia quản trị nhà nước, quản trị xã hội. Mọi hành vi tận dụng dân chủ, tận dụng quyền lập hội để chống phá Đảng, chính quyền sở tại nhân dân, đi ngược lại quyền lợi của Nhân dân và dân tộc bản địa đều vi phạm pháp lý Nước Ta và bị giải quyết và xử lý theo pháp lý. Đảng, Nhà nước, cấp ủy và chính quyền sở tại địa phương tôn trọng tính tự chủ, tự nguyện, ủng hộ và tạo mọi điều kiện kèm theo để Mặt trận và những tổ chức triển khai chính trị – xã hội hoạt động giải trí tích cực, phát minh sáng tạo góp phần cho Đảng, chính quyền sở tại và quốc gia, mang lại quyền lợi cho Nhân dân. Đảng, chính quyền sở tại lắng nghe quan điểm góp phần của Mặt trận và những tổ chức triển khai chính trị – xã hội. Đảng, Nhà nước có chính sách, chủ trương, tạo điều kiện kèm theo để Mặt trận và những tổ chức triển khai chính trị – xã hội hoạt động giải trí có hiệu suất cao, thực thi vai trò giám sát và phản biện xã hội. Trong hệ thống chính trị, những bộ phận cấu thành đều có chung một mục tiêu là duy trì và đại diện thay mặt cho quyền lực tối cao và quyền lợi của giai cấp và dân tộc bản địa. Cả hệ thống chính trị Nước Ta đều có chung một tiềm năng là phấn đấu vì một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công minh, văn minh. Cương lĩnh thiết kế xây dựng quốc gia trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhấn mạnh vấn đề : Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền chỉ huy Nhà nước và xã hội. Đảng chỉ huy hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Mặt trận và những đoàn thể chính trị – xã hội góp thêm phần quan trọng trong việc thực thi cương lĩnh, tiềm năng, phương hướng chính trị của Đảng cầm quyền và Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Mặt trận và những đoàn thể chính trị – xã hội góp thêm phần bảo vệ sức mạnh của hệ thống chính trị. Mặt trận Tổ quốc và những đoàn thể quyết định hành động việc tập hợp lực lượng nhân dân, tổ chức triển khai những trào lưu nhân dân và thiết kế xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc bản địa. Cơ chế và những nguyên tắc vận hànhHệ thống chính trị Nước Ta hoạt động giải trí theo chính sách Đảng chỉ huy, Nhà nước quản trị, Nhân dân làm chủ. Hệ thống chính trị Nước Ta hoạt động giải trí theo những nguyên tắc phổ cập của hệ thống chính trị nói chung như : nguyên tắc quyền lực tối cao nhà nước thuộc về Nhân dân ; nguyên tắc ủy quyền có điều kiện kèm theo và có thời hạn ; nguyên tắc pháp quyền. Ngoài ra hệ thống chính trị Nước Ta hoạt động giải trí theo những nguyên tắc riêng như : tập trung chuyên sâu dân chủ, chỉ huy tập thể, cá thể đảm nhiệm. Nguyên tắc quyền lực tối cao nhà nước là tập trung chuyên sâu thống nhất, không phân loại, nhưng có sự phân công, phối hợp và trấn áp giữa những cơ quan nhà nước trong việc thực thi những quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Hệ thống chính trị Nước Ta cũng được tổ chức triển khai theo những quy mô phổ cập của hệ thống chính trị những nước trên quốc tế. Mặt khác hệ thống chính trị Nước Ta cũng có những đặc thù riêng. Thứ nhất, hệ thống chính trị Nước Ta do duy nhất một Đảng Cộng sản chỉ huy. Không sống sót những đảng chính trị trái chiều. Đặc điểm này bộc lộ tính thông dụng của hệ thống chính trị ở những nước xã hội chủ nghĩa, vừa biểu lộ tính đặc trưng xuất phát từ điều kiện kèm theo thực tiễn đơn cử ở Nước Ta. Bởi vì, ngay từ khi sinh ra, Đảng Cộng sản Việt Nam đã được sự tin tưởng của Nhân dân, được Nhân dân ủng hộ, tôn vinh ở vị trí chỉ huy và trong thực tiễn Đảng đã xứng danh với vị trí được tôn vinh này [ 6 ] Thứ hai, hệ thống chính trị Nước Ta là hệ thống chính trị được kiến thiết xây dựng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, có tìm hiểu thêm kinh nghiệm tay nghề của quốc tế. Toàn bộ hệ thống chính trị đều được tổ chức triển khai và hoạt động giải trí trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta xác lập “ Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, mục tiêu cho hành vi cách mạng ”. Thứ ba, do lịch sử vẻ vang hình thành gắn với những cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc bản địa, Mặt trận tổ quốc và những tổ chức triển khai thành viên do Đảng xây dựng và chỉ huy, có mối quan hệ gắn bó, mật thiết với Đảng và Nhà nước. Các tổ chức triển khai thành viên của hệ thống chính trị đều do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập : Nhà nước là hình thức tổ chức triển khai quyền lực tối cao của Nhân dân – do Đảng lập ra. Mặt trận Tổ quốc và những tổ chức triển khai chính trị – xã hội do Đảng sáng lập có trách nhiệm chính trị là tổ chức triển khai tập hợp, đoàn kết quần chúng, đại diện thay mặt ý chí và nguyện vọng của quần chúng. Thứ tư, hệ thống chính trị Nước Ta là một hệ thống mang tính thống nhất và tập trung chuyên sâu quyền lực tối cao. Tính thống nhất của hệ thống chính trị xuất phát từ nguồn gốc quyền lực tối cao của nhân nhân ủy quyền cho Đảng, Nhà nước để thực thi mục tiêu chung. Mục đích chính trị của hàng loạt hệ thống là : kiến thiết xây dựng thành công xuất sắc chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Nước Ta và tiềm năng đơn cử được xác lập là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công minh, văn minh. Thứ năm, trong hệ thống chính trị Nước Ta, những thành viên có vị thế pháp lý vững chãi. Do vị trí, công dụng của mỗi thành viên trong hệ thống chính trị được lao lý trong Hiến pháp và những luật đạo, như : Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Công đoàn, Luật Thanh niên …
 

II. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – THÀNH TỐ HẠT NHÂN VÀ LÃNH ĐẠO CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM

2.1. Vai trò hạt nhân và yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị Việt Nam

Vai trò hạt nhân lãnh đạo

Trong hệ thống chính trị Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đóng vai trò hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội. Vai trò lãnh đạo đó xuất phát từ chính bản chất của một Đảng Cộng sản theo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bản chất đó được hình thành từ 3 yếu tố quan trọng. Thứ nhất, Đảng Cộng sản khác về chất với các đảng chính trị hiện có (đảng tư sản) ở chỗ: luôn đại diện cho quyền và lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động, đấu tranh và phấn đấu cho mục tiêu giải phóng con người, xóa bỏ bất công và áp bức trong xã hội, xây dựng một xã hội vì con người, vì sự phát triển và hoàn thiện các khả năng của con người. Thứ hai, Đảng Cộng sản là tổ chức của những người cộng sản tiêu biểu về mặt trí tuệ, đồng thời luôn thu hút và tập hợp được những người tài giỏi nhất của giai cấp và xã hội. Thứ ba, Đảng Cộng sản còn có tính tiền phong, tiêu biểu cho những giá trị, tiến bộ và văn minh của nhân loại.

Chính vì có “ chất cộng sản ” trên, Đảng luôn có được sự ủng hộ của Nhân dân, xứng danh là lực lượng lãnh đạo Nhân dân giành lại quyền lực tối cao nhà nước từ tay giai cấp thống trị, lập nên Nhà nước, chỉ huy Nhà nước tổ chức triển khai thực thi quyền lực tối cao của Nhân dân, cho Nhân dân và vì Nhân dân. Lãnh đạo Nhân dân và xã hội triển khai tiềm năng thiết kế xây dựng một xã hội tốt đẹp, tăng trưởng – xã hội chủ nghĩa. Trong quy trình này, sự chỉ huy của Đảng là điều kiện kèm theo tiên quyết bảo vệ cho sự thành công xuất sắc của công cuộc kiến thiết xây dựng xã hội mới ở Nước Ta .
Đảng có vai trò chỉ huy Nhà nước và xã hội nhưng mọi tổ chức triển khai đảng và đảng viên đều phải hoạt động giải trí trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp lý. Đây là nguyên tắc hiến định bảo vệ nguyên tắc pháp quyền trong tổ chức triển khai và hoạt động giải trí của hệ thống chính trị Nước Ta, hướng tới tiềm năng kiến thiết xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa .

Yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị:

Thứ nhất, sự lãnh đạo của Đảng xuất phát từ tính chất của một Đảng Cộng sản. Đảng Cộng sản khác với các đảng chính trị khác ở 03 tiền đề quan trọng: (1) là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, Đảng tập hợp những con người tiêu biểu của xã hội; (2) là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của Nhân dân lao động và của dân tộc. Việc ra đời và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt thời gian qua đã biểu hiện rõ tính chất nêu trên. Đảng là đảng của cả dân tộc, tức của mọi giai tầng trong xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “Đảng là đảng của giai cấp lao động, mà cũng là đảng của toàn dân”[1]. Ngoài lợi ích đại diện cho dân, cho nước, Đảng không có lợi ích nào khác; (3) tiêu biểu về trí tuệ, Đảng tập hợp, thu hút được những người tài giỏi nhất của giai cấp và các tầng lớp Nhân dân vào trong tổ chức của mình. Ba tiền đề trên chính là yếu tố tạo nên sức mạnh, năng lực lãnh đạo của Đảng và sự tin tưởng, ủng hộ của Nhân dân.

Thứ hai, việc lựa chọn con đường phát triển của đất nước dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Con đường phát triển này luôn cần có sự lãnh đạo của một Đảng cộng sản – Đảng luôn đại diện cho quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân và của dân tộc trong tổ chức và thực thi quyền lực của Nhân dân. Theo đó, Đảng vì mục tiêu, lý tưởng cộng sản của mình sẽ là lực lượng lãnh đạo Nhân dân giành chính quyền, giành lại quyền lực nhà nước về tay Nhân dân và tổ chức thực thi quyền lực của Nhân dân, cho Nhân dân và vì Nhân dân. Trong quá trình này, sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho quyền lực nhà nước được thực thi vì mục đích, lợi ích của Nhân dân và xã hội.

Thứ ba, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của Việt Nam. Trong hệ thống chính trị một Đảng Cộng sản cầm quyền, không thể có một tổ chức hay lực lượng nào khác trong tương quan so sánh có khả năng dẫn dắt, lãnh đạo Nhân dân thực hiện được những mục đích tốt đẹp như Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện. Trong Điều lệ Đảng chỉ rõ mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Đặc điểm này cho thấy rằng, đường lối cách mạng của Đảng là đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của Nhân dân. Đây là cơ sở quan trọng cho sự lãnh đạo của Đảng ở Việt Nam hiện nay.

Trong sự chỉ huy của mình, Đảng đề cao nguyên tắc tổng thể quyền lực tối cao nhà nước thuộc về Nhân dân, thiết kế xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự chỉ huy của Đảng. Trong đó, tổ chức triển khai quyền lực tối cao nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và trấn áp giữa những cơ quan trong việc triển khai những quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp .
Đảng chỉ huy xã hội được xác lập là hầu hết bằng Nhà nước. Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã nêu rõ : “ Trong điều kiện kèm theo Đảng ta là đảng cầm quyền và có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phương pháp chỉ huy của Đảng phải đa phần bằng Nhà nước và trải qua Nhà nước ” [ 2 ] .
Tuy nhiên, khi trở thành một Đảng duy nhất cầm quyền chỉ huy hệ thống chính trị và chỉ huy hàng loạt xã hội trong thời kỳ tự do, Đảng phải luôn đề phòng năng lực chủ quan, duy ý chí, độc đoán, chuyên quyền. Việc phân định tính năng chỉ huy của Đảng và tính năng quản trị của Nhà nước lúc bấy giờ làm cho sự chỉ huy của Đảng trên trong thực tiễn hoàn toàn có thể dẫn tới hai khuynh hướng : hoặc bao biện làm thay những việc làm của Nhà nước, can thiệp trực tiếp vào những việc làm của Nhà nước hoặc buông lỏng sự chỉ huy của Đảng. Quá trình thay đổi hệ thống chính trị trong thời hạn qua đã có sự phân định ngày càng rõ hơn tính năng, mối quan hệ của những bộ phận cấu thành hệ thống chính trị. Theo đó, ngoài việc xác lập rõ nội dung chỉ huy và thay đổi phương pháp chỉ huy của Đảng, giữa những cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và những tổ chức triển khai chính trị – xã hội còn kiến thiết xây dựng quy định phối hợp hoạt động giải trí, tạo sự thống nhất, thông suốt trong hoạt động giải trí của hệ thống chính trị .

2.2. Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị

Để triển khai công dụng chỉ huy, cần có những nội dung chỉ huy. Nội dung chỉ huy của Đảng là những yếu tố, trách nhiệm đơn cử mà Đảng đặt ra và đa phần được xác lập ở tiềm năng trong những đường lối, chủ chương, chủ trương nhằm mục đích kiến thiết xây dựng và tăng trưởng quốc gia. Nội dung chỉ huy của Đảng gồm có tổng thể những yếu tố về chính trị, tư tưởng, tổ chức triển khai, trên toàn bộ những nghành nghề dịch vụ của đời sống xã hội : kinh tế tài chính, chính trị, văn hóa truyền thống, xã hội, bảo mật an ninh, quốc phòng, đối ngoại .
Về nguyên tắc : Đảng chỉ huy hàng loạt hệ thống chính trị, toàn xã hội ; Đảng chỉ huy trực tiếp và tuyệt đối trên những nghành như cán bộ, công tác làm việc đối ngoại, bảo mật an ninh, quốc phòng. Nhà nước, những tổ chức triển khai chính trị – xã hội triển khai đúng công dụng, trách nhiệm của mình .

Những nội dung lãnh đạo của Đảng:

Một là, Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, chiến lược, đường lối, chính sách lớn trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trên cơ sở đó, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa chúng thành các luật lệ, quy định, chính sách và tổ chức thực hiện, Mặt trận và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị dựa trên đường lối của Đảng, luật pháp, chương trình, kế hoạch của công tác và tổ chức thực hiện phù hợp với chức năng của từng tổ chức, Đảng không quyết định những vấn đề thuộc chức năng, thẩm quyền và trách nhiệm của Nhà nước và các tổ chức khác, Đảng tôn trọng tính độc lập của từng tổ chức.

Hai là, Đảng lãnh đạo xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch vững mạnh, đủ năng lực và hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, thực sự là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng được tiến hành từng bước phù hợp với tình hình thực tiễn. Theo đó, ngoài việc lãnh đạo Quốc hội tập trung vào việc xây dựng hệ thống luật pháp đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện cải cách quy trình lập pháp, cải cách nền hành chính nhà nước chuyên nghiệp, hiện đại, cải cách tư pháp.

Bên cạnh đó, Đảng chỉ huy thiết kế xây dựng những tổ chức triển khai chính trị – xã hội đủ sức tập hợp thoáng đãng quần chúng Nhân dân và phát huy có hiệu suất cao quyền làm chủ của họ trên những nghành đời sống xã hội. Sự chỉ huy của Đảng trên nghành nghề dịch vụ này bộc lộ ở việc đề ra những quan điểm, những nguyên tắc, tư tưởng chỉ huy việc thiết kế xây dựng tổ chức triển khai và hoạt động giải trí của những tổ chức triển khai ; tôn vinh tính tự chủ, dữ thế chủ động của những tổ chức triển khai. Đảng không can thiệp vào việc làm tổ chức triển khai đơn cử của những thành viên khác trong hệ thống chính trị .

Ba là, Đảng xác định thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ thông qua việc hoạch định chủ trương, chính sách cán bộ. Đảng quyết định những chính sách lớn về cán bộ, thực hiện công tác tổ chức và cán bộ trên tất cả các khâu đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, đánh giá và sử dụng cán bộ. Trực tiếp bố trí và quyết định nhân sự chủ chốt của hệ thống chính trị, nhất là ở các cấp cao, giới thiệu các đảng viên ưu tú, có uy tín, năng lực, trung thành với Đảng, dân tộc cho Nhân dân lựa chọn, bầu vào các vị trí lãnh đạo trong các cơ quan dân cử và các cơ quan nhà nước, các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.

Bốn là, Đảng tiến hành kiểm tra đối với các tổ chức Đảng, Nhà nước và các tổ chức chủ yếu khác trong hệ thống chính trị. Nội dung kiểm tra chủ yếu là việc quán triệt và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, việc tuân thủ pháp luật và trách nhiệm trước Nhân dân. Đảng vừa trực tiếp kiểm tra, vừa tổ chức sự phối hợp hoạt động kiểm tra của cả hệ thống kiểm tra Đảng, giám sát của Quốc hội, thanh tra Nhà nước, điều tra của Viện Kiểm sát và kiểm tra của các tổ chức chính trị – xã hội khác. Thông qua kiểm tra, phát hiện những việc làm đúng, những sai sót trong tổ chức thực hiện, qua đó tiến hành sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm và tiếp tục bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Từ đó nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước, hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội và đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Như vậy, nội dung chỉ huy của Đảng được biểu lộ trong cương lĩnh chính trị, đường lối chủ trương, chủ trương của Đảng, bảo vệ tính xu thế chính trị cho sự tăng trưởng quốc gia, tạo cơ sở cho tổ chức triển khai và hoạt động giải trí của hệ thống chính trị và hàng loạt xã hội hướng tới tiềm năng : dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công minh, văn minh .

2.3. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị

Phương thức chỉ huy của Đảng chính là phương pháp tác động ảnh hưởng của Đảng so với những đối tượng người tiêu dùng chỉ huy nhằm mục đích biến đường lối chủ trương của Đảng thành nhận thức và hành vi, qua đó thực thi được những trách nhiệm cách mạng do Đảng đề ra .
– Chủ thể ảnh hưởng tác động : Đảng Cộng sản Việt Nam .
– Đối tượng tác động ảnh hưởng : Nhà nước, những lực lượng xã hội, những tổ chức triển khai, cá thể .
– Phương thức ảnh hưởng tác động : trải qua hệ thống những phương pháp, chiêu thức, giải pháp, quá trình, lề lối thao tác, tác phong công tác làm việc của Đảng .
– Mục đích : nhằm mục đích biến đường lối chủ trương của Đảng thành nhận thức và hành vi của đối tượng người dùng chỉ huy qua đó triển khai những trách nhiệm cách mạng do Đảng đề ra .

Phương thức lãnh đạo của Đảng:

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) xác định phương thức lãnh đạo của Đảng đối với xã hội bằng:

– Cư ­ ơng lĩnh, chiến l ­ ược, những định h ­ ướng về chủ trương và chủ tr ­ ương lớn của Đảng, được bộc lộ trong cương lĩnh, văn kiện, những nghị quyết của Đảng. Trên cơ sở những quan điểm đường lối, chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước thể chế hóa thành Hiến pháp, những luật đạo, những văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước .
– Công tác tuyên truyền, thuyết phục, hoạt động : đây là một phương pháp chỉ huy hầu hết và quan trọng của Đảng. Đường lối, tiềm năng, chủ trương, chủ trương của Đảng dù có đúng đắn và khoa học vì dân, nhưng nếu không có sự tuyên truyền, thuyết phục, hoạt động thì chúng cũng khó đến được với những chủ thể khác trong hệ thống chính trị, khó tạo được sự thống nhất về tư tưởng, và hành vi. Phương thức chỉ huy này mang tính dân chủ, góp thêm phần tạo sự đồng thuận và kêu gọi sức mạnh của hệ thống, xã hội .
– Công tác tổ chức triển khai, cán bộ, Đảng thống nhất chỉ huy công tác làm việc cán bộ và quản trị đội ngũ cán bộ, ra mắt những đảng viên xuất sắc ưu tú có năng lượng và phẩm chất vào hoạt động giải trí trong những cơ quan chỉ huy của hệ thống chính trị .
– Công tác kiểm tra, giám sát được coi là một phương pháp chỉ huy của Đảng. Lãnh đạo mà không có kiểm tra, giám sát thì coi như là không chỉ huy. Việc kiểm tra, giám sát của Đảng giúp cho việc nhận diện việc chớp lấy và thực thi chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng đã đúng chưa, có những vướng mắc, chưa ổn gì trong trong thực tiễn và cần phải hoàn thành xong chủ trương hay khắc phục như thế nào .
– Sự gư ­ ơng mẫu của đảng viên, nhất là những người đứng đầu những tổ chức triển khai, cơ quan của Đảng. Sự gương mẫu của mỗi đảng viên, nhất là của những người đứng đầu ở những vị trí cao của hệ thống chính trị luôn có sức lay động và cảm hóa can đảm và mạnh mẽ so với Nhân dân .
– Đảng chỉ huy trải qua tổ chức triển khai đảng và đảng viên hoạt động giải trí trong những tổ chức triển khai của hệ thống chính trị. Thông qua tính kỷ luật và thống nhất trong Đảng, những đảng viên và tổ chức triển khai đảng sẽ là người tuân thủ, triển khai đúng đường lối, chủ trương, chủ trương của Đảng. Đồng thời họ cũng là người có vai trò phổ cập, hoạt động, thuyết phục so với những thành viên khác của xã hội nhận thức và triển khai đường lối, chủ trương, chủ trương của Đảng .
Ngoài những điểm nêu trên, Đảng chỉ huy Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, những tổ chức triển khai chính trị – xã hội và Nhân dân từ uy tín của Đảng, từ sự tôn vinh và tôn trọng vai trò của Nhà nước, những tổ chức triển khai trong hệ thống chính trị và toàn xã hội .

II. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – THÀNH TỐ HẠT NHÂN VÀ LÃNH ĐẠO CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM

2.1. Vai trò hạt nhân và yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị Việt Nam

Vai trò hạt nhân lãnh đạo

Trong hệ thống chính trị Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đóng vai trò hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội. Vai trò lãnh đạo đó xuất phát từ chính bản chất của một Đảng Cộng sản theo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bản chất đó được hình thành từ 3 yếu tố quan trọng. Thứ nhất, Đảng Cộng sản khác về chất với các đảng chính trị hiện có (đảng tư sản) ở chỗ: luôn đại diện cho quyền và lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động, đấu tranh và phấn đấu cho mục tiêu giải phóng con người, xóa bỏ bất công và áp bức trong xã hội, xây dựng một xã hội vì con người, vì sự phát triển và hoàn thiện các khả năng của con người. Thứ hai, Đảng Cộng sản là tổ chức của những người cộng sản tiêu biểu về mặt trí tuệ, đồng thời luôn thu hút và tập hợp được những người tài giỏi nhất của giai cấp và xã hội. Thứ ba, Đảng Cộng sản còn có tính tiền phong, tiêu biểu cho những giá trị, tiến bộ và văn minh của nhân loại.

Chính vì có “ chất cộng sản ” trên, Đảng luôn có được sự ủng hộ của Nhân dân, xứng danh là lực lượng lãnh đạo Nhân dân giành lại quyền lực tối cao nhà nước từ tay giai cấp thống trị, lập nên Nhà nước, chỉ huy Nhà nước tổ chức triển khai thực thi quyền lực tối cao của Nhân dân, cho Nhân dân và vì Nhân dân. Lãnh đạo Nhân dân và xã hội thực thi tiềm năng kiến thiết xây dựng một xã hội tốt đẹp, tăng trưởng – xã hội chủ nghĩa. Trong quy trình này, sự chỉ huy của Đảng là điều kiện kèm theo tiên quyết bảo vệ cho sự thành công xuất sắc của công cuộc thiết kế xây dựng xã hội mới ở Nước Ta .
Đảng có vai trò chỉ huy Nhà nước và xã hội nhưng mọi tổ chức triển khai đảng và đảng viên đều phải hoạt động giải trí trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp lý. Đây là nguyên tắc hiến định bảo vệ nguyên tắc pháp quyền trong tổ chức triển khai và hoạt động giải trí của hệ thống chính trị Nước Ta, hướng tới tiềm năng thiết kế xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa .

Yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị:

Thứ nhất, sự lãnh đạo của Đảng xuất phát từ tính chất của một Đảng Cộng sản. Đảng Cộng sản khác với các đảng chính trị khác ở 03 tiền đề quan trọng: (1) là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, Đảng tập hợp những con người tiêu biểu của xã hội; (2) là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của Nhân dân lao động và của dân tộc. Việc ra đời và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt thời gian qua đã biểu hiện rõ tính chất nêu trên. Đảng là đảng của cả dân tộc, tức của mọi giai tầng trong xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “Đảng là đảng của giai cấp lao động, mà cũng là đảng của toàn dân”[1]. Ngoài lợi ích đại diện cho dân, cho nước, Đảng không có lợi ích nào khác; (3) tiêu biểu về trí tuệ, Đảng tập hợp, thu hút được những người tài giỏi nhất của giai cấp và các tầng lớp Nhân dân vào trong tổ chức của mình. Ba tiền đề trên chính là yếu tố tạo nên sức mạnh, năng lực lãnh đạo của Đảng và sự tin tưởng, ủng hộ của Nhân dân.

Thứ hai, việc lựa chọn con đường phát triển của đất nước dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Con đường phát triển này luôn cần có sự lãnh đạo của một Đảng cộng sản – Đảng luôn đại diện cho quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân và của dân tộc trong tổ chức và thực thi quyền lực của Nhân dân. Theo đó, Đảng vì mục tiêu, lý tưởng cộng sản của mình sẽ là lực lượng lãnh đạo Nhân dân giành chính quyền, giành lại quyền lực nhà nước về tay Nhân dân và tổ chức thực thi quyền lực của Nhân dân, cho Nhân dân và vì Nhân dân. Trong quá trình này, sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho quyền lực nhà nước được thực thi vì mục đích, lợi ích của Nhân dân và xã hội.

Thứ ba, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của Việt Nam. Trong hệ thống chính trị một Đảng Cộng sản cầm quyền, không thể có một tổ chức hay lực lượng nào khác trong tương quan so sánh có khả năng dẫn dắt, lãnh đạo Nhân dân thực hiện được những mục đích tốt đẹp như Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện. Trong Điều lệ Đảng chỉ rõ mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Đặc điểm này cho thấy rằng, đường lối cách mạng của Đảng là đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của Nhân dân. Đây là cơ sở quan trọng cho sự lãnh đạo của Đảng ở Việt Nam hiện nay.

Trong sự chỉ huy của mình, Đảng đề cao nguyên tắc toàn bộ quyền lực tối cao nhà nước thuộc về Nhân dân, thiết kế xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự chỉ huy của Đảng. Trong đó, tổ chức triển khai quyền lực tối cao nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và trấn áp giữa những cơ quan trong việc triển khai những quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp .
Đảng chỉ huy xã hội được xác lập là hầu hết bằng Nhà nước. Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã nêu rõ : “ Trong điều kiện kèm theo Đảng ta là đảng cầm quyền và có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phương pháp chỉ huy của Đảng phải đa phần bằng Nhà nước và trải qua Nhà nước ” [ 2 ] .
Tuy nhiên, khi trở thành một Đảng duy nhất cầm quyền chỉ huy hệ thống chính trị và chỉ huy hàng loạt xã hội trong thời kỳ độc lập, Đảng phải luôn đề phòng năng lực chủ quan, duy ý chí, độc đoán, chuyên quyền. Việc phân định công dụng chỉ huy của Đảng và công dụng quản trị của Nhà nước lúc bấy giờ làm cho sự chỉ huy của Đảng trên trong thực tiễn hoàn toàn có thể dẫn tới hai khuynh hướng : hoặc bao biện làm thay những việc làm của Nhà nước, can thiệp trực tiếp vào những việc làm của Nhà nước hoặc buông lỏng sự chỉ huy của Đảng. Quá trình thay đổi hệ thống chính trị trong thời hạn qua đã có sự phân định ngày càng rõ hơn tính năng, mối quan hệ của những bộ phận cấu thành hệ thống chính trị. Theo đó, ngoài việc xác lập rõ nội dung chỉ huy và thay đổi phương pháp chỉ huy của Đảng, giữa những cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và những tổ chức triển khai chính trị – xã hội còn kiến thiết xây dựng quy định phối hợp hoạt động giải trí, tạo sự thống nhất, thông suốt trong hoạt động giải trí của hệ thống chính trị .

2.2. Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị

Để thực thi tính năng chỉ huy, cần có những nội dung chỉ huy. Nội dung chỉ huy của Đảng là những yếu tố, trách nhiệm đơn cử mà Đảng đặt ra và đa phần được xác lập ở tiềm năng trong những đường lối, chủ chương, chủ trương nhằm mục đích kiến thiết xây dựng và tăng trưởng quốc gia. Nội dung chỉ huy của Đảng gồm có tổng thể những yếu tố về chính trị, tư tưởng, tổ chức triển khai, trên toàn bộ những nghành nghề dịch vụ của đời sống xã hội : kinh tế tài chính, chính trị, văn hóa truyền thống, xã hội, bảo mật an ninh, quốc phòng, đối ngoại .
Về nguyên tắc : Đảng chỉ huy hàng loạt hệ thống chính trị, toàn xã hội ; Đảng chỉ huy trực tiếp và tuyệt đối trên những nghành như cán bộ, công tác làm việc đối ngoại, bảo mật an ninh, quốc phòng. Nhà nước, những tổ chức triển khai chính trị – xã hội triển khai đúng công dụng, trách nhiệm của mình .

Những nội dung lãnh đạo của Đảng:

Một là, Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, chiến lược, đường lối, chính sách lớn trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trên cơ sở đó, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa chúng thành các luật lệ, quy định, chính sách và tổ chức thực hiện, Mặt trận và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị dựa trên đường lối của Đảng, luật pháp, chương trình, kế hoạch của công tác và tổ chức thực hiện phù hợp với chức năng của từng tổ chức, Đảng không quyết định những vấn đề thuộc chức năng, thẩm quyền và trách nhiệm của Nhà nước và các tổ chức khác, Đảng tôn trọng tính độc lập của từng tổ chức.

Hai là, Đảng lãnh đạo xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch vững mạnh, đủ năng lực và hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, thực sự là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng được tiến hành từng bước phù hợp với tình hình thực tiễn. Theo đó, ngoài việc lãnh đạo Quốc hội tập trung vào việc xây dựng hệ thống luật pháp đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện cải cách quy trình lập pháp, cải cách nền hành chính nhà nước chuyên nghiệp, hiện đại, cải cách tư pháp.

Bên cạnh đó, Đảng chỉ huy kiến thiết xây dựng những tổ chức triển khai chính trị – xã hội đủ sức tập hợp thoáng rộng quần chúng Nhân dân và phát huy có hiệu suất cao quyền làm chủ của họ trên những nghành nghề dịch vụ đời sống xã hội. Sự chỉ huy của Đảng trên nghành nghề dịch vụ này biểu lộ ở việc đề ra những quan điểm, những nguyên tắc, tư tưởng chỉ huy việc thiết kế xây dựng tổ chức triển khai và hoạt động giải trí của những tổ chức triển khai ; tôn vinh tính tự chủ, dữ thế chủ động của những tổ chức triển khai. Đảng không can thiệp vào việc làm tổ chức triển khai đơn cử của những thành viên khác trong hệ thống chính trị .

Ba là, Đảng xác định thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ thông qua việc hoạch định chủ trương, chính sách cán bộ. Đảng quyết định những chính sách lớn về cán bộ, thực hiện công tác tổ chức và cán bộ trên tất cả các khâu đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, đánh giá và sử dụng cán bộ. Trực tiếp bố trí và quyết định nhân sự chủ chốt của hệ thống chính trị, nhất là ở các cấp cao, giới thiệu các đảng viên ưu tú, có uy tín, năng lực, trung thành với Đảng, dân tộc cho Nhân dân lựa chọn, bầu vào các vị trí lãnh đạo trong các cơ quan dân cử và các cơ quan nhà nước, các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.

Bốn là, Đảng tiến hành kiểm tra đối với các tổ chức Đảng, Nhà nước và các tổ chức chủ yếu khác trong hệ thống chính trị. Nội dung kiểm tra chủ yếu là việc quán triệt và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, việc tuân thủ pháp luật và trách nhiệm trước Nhân dân. Đảng vừa trực tiếp kiểm tra, vừa tổ chức sự phối hợp hoạt động kiểm tra của cả hệ thống kiểm tra Đảng, giám sát của Quốc hội, thanh tra Nhà nước, điều tra của Viện Kiểm sát và kiểm tra của các tổ chức chính trị – xã hội khác. Thông qua kiểm tra, phát hiện những việc làm đúng, những sai sót trong tổ chức thực hiện, qua đó tiến hành sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm và tiếp tục bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Từ đó nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước, hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội và đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Như vậy, nội dung chỉ huy của Đảng được biểu lộ trong cương lĩnh chính trị, đường lối chủ trương, chủ trương của Đảng, bảo vệ tính xu thế chính trị cho sự tăng trưởng quốc gia, tạo cơ sở cho tổ chức triển khai và hoạt động giải trí của hệ thống chính trị và hàng loạt xã hội hướng tới tiềm năng : dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công minh, văn minh .

2.3. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị

Phương thức chỉ huy của Đảng chính là phương pháp ảnh hưởng tác động của Đảng so với những đối tượng người tiêu dùng chỉ huy nhằm mục đích biến đường lối chủ trương của Đảng thành nhận thức và hành vi, qua đó triển khai được những trách nhiệm cách mạng do Đảng đề ra .
– Chủ thể tác động ảnh hưởng : Đảng Cộng sản Việt Nam .
– Đối tượng tác động ảnh hưởng : Nhà nước, những lực lượng xã hội, những tổ chức triển khai, cá thể .
– Phương thức ảnh hưởng tác động : trải qua hệ thống những phương pháp, giải pháp, giải pháp, quá trình, lề lối thao tác, tác phong công tác làm việc của Đảng .
– Mục đích : nhằm mục đích biến đường lối chủ trương của Đảng thành nhận thức và hành vi của đối tượng người tiêu dùng chỉ huy qua đó thực thi những trách nhiệm cách mạng do Đảng đề ra .

Phương thức lãnh đạo của Đảng:

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) xác định phương thức lãnh đạo của Đảng đối với xã hội bằng:

– Cư ­ ơng lĩnh, chiến l ­ ược, những định h ­ ướng về chủ trương và chủ tr ­ ương lớn của Đảng, được bộc lộ trong cương lĩnh, văn kiện, những nghị quyết của Đảng. Trên cơ sở những quan điểm đường lối, chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước thể chế hóa thành Hiến pháp, những luật đạo, những văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước .
– Công tác tuyên truyền, thuyết phục, hoạt động : đây là một phương pháp chỉ huy hầu hết và quan trọng của Đảng. Đường lối, tiềm năng, chủ trương, chủ trương của Đảng dù có đúng đắn và khoa học vì dân, nhưng nếu không có sự tuyên truyền, thuyết phục, hoạt động thì chúng cũng khó đến được với những chủ thể khác trong hệ thống chính trị, khó tạo được sự thống nhất về tư tưởng, và hành vi. Phương thức chỉ huy này mang tính dân chủ, góp thêm phần tạo sự đồng thuận và kêu gọi sức mạnh của hệ thống, xã hội .
– Công tác tổ chức triển khai, cán bộ, Đảng thống nhất chỉ huy công tác làm việc cán bộ và quản trị đội ngũ cán bộ, trình làng những đảng viên xuất sắc ưu tú có năng lượng và phẩm chất vào hoạt động giải trí trong những cơ quan chỉ huy của hệ thống chính trị .
– Công tác kiểm tra, giám sát được coi là một phương pháp chỉ huy của Đảng. Lãnh đạo mà không có kiểm tra, giám sát thì coi như là không chỉ huy. Việc kiểm tra, giám sát của Đảng giúp cho việc nhận diện việc chớp lấy và thực thi chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng đã đúng chưa, có những vướng mắc, chưa ổn gì trong thực tiễn và cần phải hoàn thành xong chủ trương hay khắc phục như thế nào .

– Sự gư­ơng mẫu của đảng viên, nhất là những người đứng đầu các tổ chức, cơ quan của Đảng. Sự gương mẫu của mỗi đảng viên, nhất là của những người đứng đầu ở các vị trí cao của hệ thống chính trị luôn có sức lay động và cảm hóa mạnh mẽ đối với Nhân dân. 

– Đảng chỉ huy trải qua tổ chức triển khai đảng và đảng viên hoạt động giải trí trong những tổ chức triển khai của hệ thống chính trị. Thông qua tính kỷ luật và thống nhất trong Đảng, những đảng viên và tổ chức triển khai đảng sẽ là người tuân thủ, thực thi đúng đường lối, chủ trương, chủ trương của Đảng. Đồng thời họ cũng là người có vai trò thông dụng, hoạt động, thuyết phục so với những thành viên khác của xã hội nhận thức và triển khai đường lối, chủ trương, chủ trương của Đảng .
Ngoài những điểm nêu trên, Đảng chỉ huy Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, những tổ chức triển khai chính trị – xã hội và Nhân dân từ uy tín của Đảng, từ sự tôn vinh và tôn trọng vai trò của Nhà nước, những tổ chức triển khai trong hệ thống chính trị và toàn xã hội .

 

 

 

Rate this post