Sống lương thiện là kỹ năng sống quan trọng bậc nhất

Câu vấn đáp dứt khoát của những bậc thầy đã rất thành đạt trong kinh tế tài chính là : “ Sống lương thiện là kiến thức và kỹ năng sống quan trọng bậc nhất so với thế hệ trẻ lúc bấy giờ ”.

Sống lương thiện là kỹ năng sống quan trọng bậc nhất

Theo từ điển tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ học biên soạn, trang 538 thì : “ Lương thiện là không làm điều gì trái pháp lý và đạo đức thường thì.

Thí dụ: Người lao động lương thiện. Làm ăn lương thiện”. Đây là một định nghĩa xuất sắc, nó vừa dễ hiểu, vừa cô đọng. Nó phù hợp với nhiều Từ điển ngôn ngữ Quốc tế.

Định nghĩa này dễ hiểu nhưng không dễ triển khai vì 2 tiêu chuẩn mà nó đề ra. Với bản năng ham muốn, tham lam, ích kỷ, dễ mấy ai đã biết giữ mình, biết khước từ lòng tham, biết kìm nén dục vọng để giữ trọn việc chấp hành Luật pháp và pháp luật của Đạo đức học để trở thành người lương thiện. Từ cách đây mấy trăm năm, nhà triết học thiên tài Jean Jacques Rousseau ( 1712 – 1778 ) đã chứng minh và khẳng định : “ Trong thẳm sâu trái tim của mỗi con người đều có khởi nguồn của Pháp luật và Đạo đức ”. Nói cách khác cho dễ hiểu lời của J.J.Rousseau là : Con người ta sinh ra vốn tính thiện, tính trong sáng, nên nếu ta biết dựa vào cái gốc biết tôn trọng Pháp luật và tôn trọng Đạo đức đang nằm ngủ ở thẳm sâu trái tim con người mà ta tìm cách giáo dục, tìm cách rèn luyện, tìm cách hướng dẫn thì sẽ thành công xuất sắc. Vai trò của giáo dục mái ấm gia đình, của giáo dục trong những trường học, giáo dục của xã hội, của đoàn thể sẽ giúp người người trẻ tuổi lớn lên sống vững vàng, sống bình an trong sự bảo trợ của pháp lý và đạo đức. Họ tự do vươn cao trong cuộc sống, không hề phải lo ngại đến những góc tối, những mặt trái của cuộc sống. Vì sao ? Vì Pháp luật và Đạo đức chính là 2 bảo vật thần diệu với sức mạnh vô địch đã quản lý loài người hàng nghìn năm nay, giúp cho con người ở những lục địa ngày càng vươn lên, ngày càng tăng trưởng, ngày càng triển khai xong. Nhạc sỹ thiên tài người Đức – Ludwing Van Beethoven ( 1770 – 1827 ) đã trọn vẹn có lý, trọn vẹn thuyết phục trái đất khi ông viết : “ Hãy dạy đạo đức cho con cháu anh, vì chỉ có đạo đức mới làm cho chúng được niềm hạnh phúc, chứ không phải là vàng bạc ” ( Recommend to your children virtue : that alone can make them happy, not gold ). Thời gian vừa mới qua, theo dõi trên truyền hình Quốc gia và những thông tin chính thống, tất cả chúng ta vui mừng nhận thấy có biết bao người trẻ tuổi nông dân, người trẻ tuổi tri thức trong và ngoài nước nhờ được cha mẹ dạy dỗ, không cho cho pháp lý và đạo đức từ nhỏ nên đã trở thành người tốt, việc tốt, làm rạng danh cho mái ấm gia đình, cho quốc gia. Trái lại, tất cả chúng ta đau lòng vì thấy con em của mình của những người đã tôn vinh tài lộc, tôn vinh đời sống xa hoa, danh vọng hão huyền đã phải kết thúc cuộc sống trong tù tội, trong xấu hổ nhục nhã cho cả mái ấm gia đình, cho cả dòng họ. Xin rất cám ơn Beethoven về lời dạy của ông tuy đã cách đây gần 300 năm nhưng vẫn còn nguyên giá trị giáo dục cho thế hệ trẻ lúc bấy giờ, còn nguyên tính thời sự update cho hàng triệu triệu thanh thiếu niên của thế kỷ XXI này. Ngay từ thưở sơ khai của loài người, nhà triết học vĩ đại nhất trong số những nhà triết học cổ đại của trái đất – Horace ( Năm 65 – năm 8 trước Công nguyên ) cũng đã chứng minh và khẳng định cái quý giá của đạo đức, của đức hạnh con người khi ông so sánh : “ Bạc kém giá trị hơn vàng, vàng kém giá trị hơn đạo đức của con người ” ( L’argent a moins de prix que l’or, l’or moins que la vertu ). Đáng chê trách thay một số ít ít kẻ tham lam, hám danh hám lợi, chỉ biết nhìn gần đã làm hại con hại cháu, vì họ đã làm ngược điều Horace đã dạy, thật đáng tiếc, đáng buồn thay ! Bậc thầy Jean Jacques Rousseau còn dạy cho con người tận thưởng cái lạc thú, cái êm ái, cái thuần khiết, cái niềm hạnh phúc mà Đức hạnh đem lại. Ông viết : “ Cái quyền lực tối cao to lớn của Đức hạnh là êm ái, thoải mái và dễ chịu đến nỗi nó đem lại những niềm vui mầu nhiệm thấm tận cả vào những nỗi ưu sầu ” ( L’empire de la vertu est si doux et agréable, qu’elle donne des jouissances célestes jusque dans les afflictions ). Những con người bản tính lương thiện, trước cám dỗ vật chất thì dứt khoát chối bỏ không chút luyến tiếc, gặp khi hoạn nạn khó khăn vất vả vẫn ngẩng cao đầu quyết không lùi chí, quyết không khuất phục. Còn bọn vô lương, thủ đoạn, nếu được thì hỉ hả cười nói, lúc bị thua, lúc bị bắt thì mếu máo, than vãn, mất hết cả chí khí của con người ! Bọn chúng đâu có cái quyền lực tối cao của đức hạnh như ở người lao động lương thiện. Một lần nữa nhờ Jean Jacques Rousseau ta lại thấy rõ : Nếu chỉ dựa vào thế lực đồng xu tiền, thế lực của kẻ cậy chức cậy quyền thì chắc như đinh có ngày sụp đổ, một sự sụp đổ không phương cứu chữa.

Hoan hô cái quyền lực của đức hạnh. Hoan hô những người lao động lương thiện ngày càng dựng xây cho đất nước giầu mạnh, hạnh phúc.

Còn giáo dục pháp luật cho con trẻ tất cả chúng ta thì tương đối đơn thuần hơn. Ta phải gương mẫu chấp hành pháp luật trước thì mới làm gương cho con em của mình noi theo được. Đứa trẻ trong nhà những quan tham còn nhìn thấy cảnh cán bộ cấp dưới đến đút lót cho cha mẹ nó thì thử hỏi làm thế nào nó biết sợ pháp lý mà cần phải tuân theo. Và cứ như thế, đứa trẻ lớn lên nó sẽ nhờn với pháp lý thì cái kết thúc tù tội dành cho nó là lẽ đương nhiên, khỏi cần bàn cãi nhiều. Đứa trẻ trong nhà những quan tham thấy cái xe xe hơi bố nó đang đi giá trị hàng nửa triệu đô, ngôi biệt thự nghỉ dưỡng mái ấm gia đình nó đang ở giá hàng chục triệu đô thì nó còn coi pháp lý ra gì nữa. Và lẽ dĩ nhiên con cháu những quan tham không khi nào hoàn toàn có thể trở thành người lương thiện được. Bọn chúng phải tìm mọi cách luồn lách luật, tận dụng kẽ hở của pháp lý để làm ăn phạm pháp. Và cứ như thế, con cháu những quan tham đã và sẽ đứng ở phía bên kia của ranh giới pháp luật và đạo đức. Chắc chắn chúng phải đền tội trước nhân dân. Cũng cần nói thêm về phép nhiệm mầu của Đức hạnh, của giáo dục Đức hạnh, của học tập và rèn luyện Đức hạnh. Nhà triết học G. Herbert ( 1593 – 1633 ) đã chứng minh và khẳng định : “ Đức hạnh không khi nào già cỗi ” ( Virtue never grows old ). Đây là một chứng minh và khẳng định cực kỳ quan trọng, nó đập tan mọi nỗi không tin, nghi ngại rằng sống trong xã hội công nghiệp tăng trưởng con người ta không cần đến đức hạnh nữa. Đây là một điều đáng tiếc trong thế kỷ XX ở một số ít nước công nghiệp tăng trưởng can đảm và mạnh mẽ. Họ cho rằng nhờ khoa học kỹ thuật tăng trưởng, con người có nhiều vật chất để tận hưởng, chỉ cần pháp lý trấn áp ngặt nghèo là đủ rồi, cần gì phải giáo dục đức hạnh cho con người nữa. Ở 1 số ít nước buông lỏng giáo dục đức hạnh cho con cháu, giáo dục nghĩa vụ và trách nhiệm công dân cho thanh thiếu niên và người lao động nên đã gặp phải những tai ương xã hội kinh khủng. Họ lớn tiếng nói rằng : “ Đức hạnh đã quá cũ kỹ, lỗi thời ”. Họ tiến hành việc điều khiển và tinh chỉnh theo lối mới. Rút cuộc cái con người quản lý pháp lý mà không có đạo đức thì còn nguy hại hơn gấp bao nhiêu lần so với cách làm cũ. Công an, TANDTC mà tuyển dụng những người không có đức hạnh thì có khác gì giao cho con cọp một thanh gươm nữa để nó tàn sát con người như cách nói của tác giả Marden : “ Có trí tuệ mà không có đạo lý phải được coi như là một con cọp lại có thêm lưỡi gươm sắc nhọn ” ( Intellect without morality is, so to speak, a tiger with a sword ). Còn về sự phấn đấu của từng cá thể để trở thành người lương thiện cũng rất khó khăn vất vả, gian nan. Nó yên cầu lương tâm của con người, mà theo định nghĩa của Blaise Pascal ( 1623 – 1662 ) thì : “ Lương tâm là cuốn sách tuyệt vời mà tất cả chúng ta sẵn có trong tâm hồn. Đây là cuốn sách mà ta phải tìm hiểu thêm nhiều nhất ” ( La conscience est le meilleur livre de moral que nous ayons. C’est celui que l’on doit consulter le plus ).

Như thế, lương tâm con người lúc nào cũng ẩn náu trong ý nghĩ, trong tâm hồn mỗi chúng ta. Nó như hạt giống đang ươm ở vườn cây.

Làm cho hạt giống lương tâm nẩy mầm, lên thân, lên cành, nở hoa, kết trái lại là một câu truyện khó nhọc cả đời, sẽ mất bao nhiêu sức lực lao động, sẽ mất bao nhiêu thời hạn. Người lương thiện, người chính trực là người phải suốt đời phấn đấu mới đạt được, mới vươn tới được những cao đẹp đó. Vì đúng như triết gia E. Rueys đã nghiên cứu và phân tích : “ Khi giầu có mà muốn làm người lương thiện thì thật không gì dễ bằng. Khi bần hàn mà làm được người lương thiện mới thật khó khăn vất vả ” ( Il n’est rien de plus aisé quand on est riche, que d’être honnête homme, et c’est quand on est pauvre qu’il est difficile de l’être ). Để kết thúc bài viết cần nhắc đến định nghĩa nổi tiếng về người lương thiện, người chính trực của nhà triết học La Cordaire ( 1802 – 1861 ) : “ Người chính trực, người lương thiện là người biết cách cân đối giữa quyền hạn và nghĩa vụ và trách nhiệm của mình ” ( L’homme juste, l’honnête homme est celui qui mesure son droit ā son devoir ).  Khi giầu có mà muốn làm người lương thiện thì thật không gì dễ bằng. Khi nghèo khổ mà làm được người lương thiện mới thật khó khăn”.
Triết gia E. Rueys.

Rate this post