Phóng đại – Wikipedia tiếng Việt

Về kĩ thuật trong giao tiếp và tâm lí, xem thổi phồng.

Con tem Open lớn hơn với việc sử dụng kính lúpĐộ phóng đại từng bước 6 % cho mỗi khung hình thành hình ảnh 39 megapixel. Trong khung ở đầu cuối, ở khoảng chừng 170 x, hình ảnh của người ngoài cuộc được nhìn thấy phản chiếu trong giác mạc của người đàn ông .

Phóng đại là quá trình mở rộng kích thước nhìn thấy, không phải kích thước vật lý của một vật. Sự mở rộng này được định lượng bằng một số tính toán còn được gọi là “độ phóng đại”. Khi con số này ít hơn một, nó đề cập đến việc giảm kích thước, đôi khi gọi là giảm hoặc khử phóng đại.

Thông thường, độ phóng đại có tương quan đến việc nhân rộng hình ảnh hoặc hình ảnh để hoàn toàn có thể nhìn cụ thể hơn, tăng độ phân giải, sử dụng kính hiển vi, kỹ thuật in hoặc giải quyết và xử lý kỹ thuật số. Trong mọi trường hợp, độ phóng đại của hình ảnh không làm đổi khác phối cảnh của hình ảnh .

Ví dụ về độ phóng đại[sửa|sửa mã nguồn]

Một số dụng cụ quang học cung ứng tương hỗ thị giác bằng cách phóng to những đối tượng người dùng nhỏ hoặc ở xa .

  • Một chiếc kính lúp, sử dụng thấu kính dương (lồi) để làm cho mọi thứ trông to hơn bằng cách cho phép người dùng giữ chúng gần mắt hơn.
  • Kính viễn vọng, sử dụng thấu kính vật kính lớn hoặc gương chính của nó để tạo ra hình ảnh của một vật ở xa và sau đó cho phép người dùng kiểm tra hình ảnh chặt chẽ bằng một ống kính thị kính nhỏ hơn, do đó làm cho vật thể trông lớn hơn.
  • Một kính hiển vi, làm cho một vật thể nhỏ xuất hiện dưới dạng hình ảnh lớn hơn nhiều ở khoảng cách thoải mái để xem. Một kính hiển vi có bố cục tương tự như kính viễn vọng ngoại trừ vật thể đang quan sát gần vật kính, thường nhỏ hơn nhiều so với thị kính.
  • Một máy chiếu slide, chiếu hình ảnh lớn của một slide nhỏ trên màn hình. Một máy phóng to ảnh cũng làm việc tương tự.

Phóng đại dưới dạng số ( phóng đại quang học )[sửa|sửa mã nguồn]

Độ phóng đại quang học là tỷ suất giữa kích cỡ biểu kiến của một vật thể ( hoặc kích cỡ của nó trong một hình ảnh ) và size thật của nó, và do đó nó là một số không thứ nguyên. Độ phóng đại quang học nhiều lúc được gọi là ” hiệu suất ” ( ví dụ ” hiệu suất 10 × ” ), mặc dầu điều này hoàn toàn có thể dẫn đến nhầm lẫn với hiệu suất quang .

Độ phóng đại tuyến tính hoặc ngang[sửa|sửa mã nguồn]

Đối với hình ảnh thực, chẳng hạn như hình ảnh chiếu trên màn hình, kích thước có nghĩa là kích thước tuyến tính (ví dụ: được đo bằng milimet hoặc inch).

Độ phóng đại góc[sửa|sửa mã nguồn]

Đối với các dụng cụ quang học có thị kính, kích thước tuyến tính của hình ảnh nhìn thấy trong thị kính (ảnh ảo trong khoảng cách vô hạn) không thể được cung cấp, do đó kích thước có nghĩa là góc được phụ thuộc bởi vật thể tại tiêu điểm (kích thước góc). Nói một cách chính xác, người ta nên lấy tiếp tuyến của góc đó (trong thực tế, điều này chỉ tạo ra sự khác biệt nếu góc lớn hơn một vài độ). Do đó, độ phóng đại góc được cho bởi:

M A = tan ⁡ ε tan ⁡ ε 0 { \ displaystyle \ mathrm { MA } = { \ frac { \ tan \ varepsilon } { \ tan \ varepsilon _ { 0 } } } }{\displaystyle \mathrm {MA} ={\frac {\tan \varepsilon }{\tan \varepsilon _{0}}}}

Ở đó

ε

0

{\varepsilon _{0}}

{\varepsilon _{0}} là góc được phụ thuộc bởi đối tượng tại tiêu điểm phía trước của vật kính và

ε

{\varepsilon }

{\varepsilon } là góc được phụ thuộc bởi hình ảnh tại tiêu điểm phía sau của thị kính.

Ví dụ, size góc trung bình của đĩa Mặt trăng khi nhìn từ bề mặt Trái đất là khoảng chừng 0,52 °. Do đó, trải qua ống nhòm với độ phóng đại 10 ×, Mặt trăng có vẻ như có một góc khoảng chừng 5,2 ° .

Theo quy ước, đối với kính lúp và kính hiển vi quang học, trong đó kích thước của vật thể là kích thước tuyến tính và kích thước biểu kiến là một góc, độ phóng đại là tỷ lệ giữa kích thước (góc) rõ ràng như nhìn thấy trong thị kính và kích thước góc của vật thể khi được đặt ở khoảng cách gần nhất thông thường của tầm nhìn khác biệt: 25 cm tính từ mắt.

Một ống kính mỏng dính trong đó size màu đen là thật, màu xám là ảo. Hướng của những mũi tên hoàn toàn có thể được sử dụng để miêu tả những tín hiệu cartesian + / – : từ TT của ống kính, trái hoặc xuống = âm, phải hoặc lên = dương .

Theo dụng cụ[sửa|sửa mã nguồn]

Ống kính đơn[sửa|sửa mã nguồn]

Độ phóng đại tuyến tính của một thấu kính mỏng mảnh làM = f f − d o { \ displaystyle M = { f \ over f-d_ { o } } }{\displaystyle M={f \over f-d_{o}}}

tại đó

f

{\textstyle f}

{\textstyle f}

d

o

{\textstyle d_{o}}

{\textstyle d_{o}} là khoảng cách từ thấu kính đến vật. Lưu ý rằng đối với hình ảnh thực,

M

{\textstyle M}

{\textstyle M} là âm và hình ảnh được đảo ngược. Đối với hình ảnh ảo,

M

{\textstyle M}

là dương và hình ảnh là cùng chiều.

Với

d

i

d_{i}

d_{i} là khoảng cách từ ống kính đến hình ảnh,

h

i

h_{i}

h_{i} là chiều cao của hình ảnh và

h

o

h_{o}

h_{o} là chiều cao của vật thể, độ phóng đại cũng có thể được viết là:

M
=

d

i

d

o

=

h

i

h

o

{\displaystyle M=-{d_{i} \over d_{o}}={h_{i} \over h_{o}}}

{\displaystyle M=-{d_{i} \over d_{o}}={h_{i} \over h_{o}}}Lưu ý một lần nữa rằng độ phóng đại âm cho thấy hình ảnh ngược .

Hình ảnh được ghi lại bằng phim ảnh hoặc cảm biến hình ảnh luôn là hình ảnh thật và thường được đảo ngược. Khi đo chiều cao của hình ảnh ngược bằng cách sử dụng quy ước dấu cartes (trong đó trục x là trục quang), giá trị của h i sẽ âm và kết quả là M cũng sẽ âm. Tuy nhiên, quy ước dấu hiệu truyền thống được sử dụng trong nhiếp ảnh là ” thực là số dương, ảo là số âm”.[1] Do đó, trong nhiếp ảnh: Chiều cao và khoảng cách đối tượng luôn thực và dương. Khi độ dài tiêu cự là dương, chiều cao và độ phóng đại của hình ảnh là thật và dương. Chỉ khi độ dài tiêu cự là âm, chiều cao, khoảng cách và độ phóng đại của hình ảnh là ảo và âm. Do đó, các công thức phóng đại ảnh được trình bày theo truyền thống là:

M = d i d o = h i h o = f d o − f = d i − f f { \ displaystyle M = { d_ { i } \ over d_ { o } } = { h_ { i } \ over h_ { o } } = { f \ over d_ { o } – f } = { d_ { i } – f \ over f } }{\displaystyle M={d_{i} \over d_{o}}={h_{i} \over h_{o}}={f \over d_{o}-f}={d_{i}-f \over f}}

Rate this post