Mối liên hệ kháng nguyên

Bài viết được thực hiện bởi bác sĩ khoa Xét nghiệm – Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park

Bạn đang đọc: Mối liên hệ kháng nguyên

Chẩn đoán huyết thanh là chọn lựa đầu tiên hoặc là chọn lựa bắt buộc trong chẩn đoán bệnh nhiễm khuẩn. Dưới đây là những mối liên hệ kháng nguyên trong thử nghiệm chẩn đoán huyết thanh

1. Phản ứng chéo

Phản ứng chéo kháng nguyên còn là vấn đề trong việc áp dụng những thử nghiệm chẩn đoán huyết thanh. Nhiều phản ứng chéo có thể liên quan đến kháng nguyên cùng giống, khác giống và giữa kháng nguyên vi khuẩn và kháng nguyên không phải của vi khuẩn. Phản ứng chéo có thể liên quan đến những cấu trúc phức tạp hoặc chỉ những quyết định kháng nguyên nhỏ.

Chẳng hạn, trong số những vi khuẩn Gram dương, teichoic acids là hơi tương đồng với những loài khác; thậm chí chúng có thể phản ứng chéo với kháng nguyên bề mặt tế bào động vật có vú như tế bào hồng cầu (22). Đối với vi khuẩn Gram âm, thường có phản ứng chéo giữa LPSs (23). Không có gì là lạ khi vi khuẩn có cấu trúc carbohydrate giống nhau và giống với mô động vật và thực vật, như kháng nguyên glycolipid của M. pneumoniae sử dụng trong thử nghiệm CF (24).

Mặc dù vậy, phản ứng chéo, không luôn luôn có nghĩa là thử nghiệm không có giá trị. Nếu những kháng nguyên có tương đương một phần hoặc giống nhau một chút ít về phân phối kháng thể với những kháng nguyên khác, hoàn toàn có thể sẽ khó lý giải khi đo được ở nồng độ pha loãng huyết thanh thấp mà không đo được ở độ pha loãng cao hơn. Cũng vậy, nhiều phản ứng chéo hoàn toàn có thể là nhỏ so với cung ứng điển hình nổi bật hơn thu được từ những kháng nguyên khác của cùng vi trùng .
xét nghiệm

2. Sự biến thể của chủng (Strain variation)

Mong muốn chọn kháng nguyên cho những thử nghiệm chẩn đoán huyết thanh mà ít bị ảnh hưởng nhất với sự biến đổi giữa chủng này với chủng khác và áp lực của sự lựa chọn hoặc sự thay đổi ngẫu nhiên sau khi vào cơ thể ký chủ. Sự biến thể của kháng nguyên (The antigenic variation) vốn được chứng minh trong việc định type và nhóm. Chẳng hạn, nhiều nang polysaccharides của S. pneumoniae đặt ra vấn đề cho cả chẩn đoán huyết thanh và miễn dịch học thậm chí chúng là then chốt cho những yếu tố độc lực (25). Ngoại trừ những thay đổi hiện nay ở phòng xét nghiệm, có thể phát hiện trước chủng hiện tại và chủng lưu hành là khác nhau giữa vùng này và vùng khác. Điều này được thấy rõ trong sự đáp ứng khác nhau đo được ở một số bệnh nhân Châu Âu bị bệnh Lyme so với những bệnh nhân ở Bắc Mỹ (26).

Sự cấy chuyển liên tục trong phòng xét nghiệm những chủng sử dụng làm cơ chất kháng nguyên hoàn toàn có thể dẫn tới làm giảm độc lực cũng như làm biến hóa đáng kể thực chất kháng nguyên của vi trùng ( the antigenic make-up of the bacterium ). Sự tạo ra một số ít kháng nguyên in vivo không nhất thiết phải bắt chước như trong phòng xét nghiệm. Sử dụng chủng gần “ hoang dại ” ( wild-type ) so sánh với chủng thường hay chủng đã ĐK được ưu thích. Sử dụng chủng đã ĐK hoàn toàn có thể không ngăn cản thực sự cung ứng miễn dịch tổng thể hay là không ( on an all-or-none basis ), nhưng hoàn toàn có thể nhìn nhận được cung ứng miễn dịch một cách đáng kể ( but it may blunt the appreciable response considerably ) .
Bệnh lyme

3. Những đáp ứng trong phòng xét nghiệm có phải luôn luôn giống như ở người?

Gây nhiễm khuẩn ở động vật hoang dã thí nghiệm hoặc chích vacxin thường được sử dụng để tiên đoán sớm những kháng nguyên chính tương quan đến nhiễm khuẩn ở người. Trong nhiều trường hợp, nhiều điều tra và nghiên cứu quả thực xác lập những kháng nguyên chính san sẻ với nhau, nhưng không phải tổng thể những trường hợp. Một số kháng nguyên không nhất thiết tạo ra cùng kiểu hoặc giống mọi thứ ở người so với thực nghiệm trên động vật hoang dã nhiễm khuẩn. Điều này không có gì làm quá bất ngờ từ khi có khá nhiều nhiễm khuẩn chỉ nhiễm tiên phát ở người mà không có ở động vật hoang dã và ngược lại .Sự tăng trưởng những kháng thể đơn dòng không bỏ lỡ nhiều hạn chế do chúng thường có nguồn gốc từ chuột và khi có sự độc lạ lớn về phân phối miễn dịch giữa chuột và người .Do đó tiêu chuẩn thực sự cho những nghiên cứu và điều tra trong phòng xét nghiệm mà cung ứng miễn dịch ở động vật hoang dã chỉ là nền tảng để thực thi trong một nghành rắc rối nếu không có quyền lợi từ những sự đồng cảm 1 số ít phần phản ứng .

4. Tính đa dạng của đáp ứng miễn dịch

Nhiều kháng nguyên vi khuẩn có thể khởi động cho đáp ứng miễn dịch sau quá trình nhiễm tự nhiên hay sau khi tiêm ngừa vắc-xin phòng bệnh. Những kháng nguyên ‘bảo vệ’ đó có khả năng làm nền tảng cho những thử nghiệm chẩn đoán huyết thanh. Còn đáp ứng với những kháng nguyên bảo vệ không luôn luôn bằng với đáp ứng thể dịch tối đa mà có thể thích hợp nhất cho mục đích chẩn đoán huyết thanh. Thực vậy, có thể khó đạt được đáp ứng với kháng nguyên bảo vệ mà cho phép tác nhân bị nhiễm lại.

Tiêm phòng lao

Việc xác định trạng thái kháng thể “dương tính”, nếu đặc hiệu, là trước tiên trong biểu hiện đáp ứng miễn dịch với vi khuẩn. Vi khuẩn có thể gây ra nhiễm khuẩn xâm lấn, nhiễm khuẩn bề mặt đơn giản chỉ là vi khuẩn thường trú. Trách nhiệm của nhiều kháng thể có thể thay đổi. Kháng thể có thể chỉ nhận ra một thành phần kháng nguyên, nhưng thực tế sự kết hợp kháng nguyên-kháng thể có thể không xảy ra. Quả thật, một số kháng nguyên nhận biết có thể ở bên trong và chỉ giải phóng ra khi tế bào bị vỡ để trình diện với hệ miễn dịch trong quá trình nhiễm khuẩn hay thực bào. Mặt khác, kháng thể có thể hoạt hóa những thành phần khác của hàng rào bảo vệ ký chủ tới mức độ mà sự tiêu diệt qua trung gian kháng thể gián tiếp kết quả là tạo ra sự cố định và hoạt hóa bổ thể. Cũng vậy, sự opsonin hóa vi khuẩn sau khi kháng thể kết hợp sẽ tạo điều kiện cho những hoạt tính của những tế bào thực bào. Do đó những phương pháp đo lường kháng thể có thể bao gồm hay không khả năng tương tác của nhiều kháng thể. Kháng thể đo được bằng phương pháp EIA bao gồm cả 2 dạng hoạt động và không hoạt động, trong khi thử nghiệm trung hòa chọn lọc những kháng thể hoạt động bởi hoạt động kháng khuẩn của nó. Do đó không thể coi tình trạng ‘dương tính’ có nghĩa là sự bảo vệ đầy đủ hoặc một phần. Thực tế, nhiều nhiễm khuẩn có thể tái lại dù có nhiễm khuẩn trước đây và có lượng kháng thể lưu hành dồi dào. Hơn nữa, khác với kháng thể trung hòa lưu hành có khả năng ức chế hoàn toàn hay một phần vi khuẩn trong máu, không đảm bảo rằng lượng nhiều trong máu sẽ bảo vệ cho nhiều nơi, như niêm mạc và trong não.

Rate this post