Người Ngái – Wikipedia tiếng Việt

Người Ngái (tên gọi khác là Ngái Nhằn, Ngái Lầu Mần, Sín, Đản, ) là một dân tộc sinh sống tại Việt Nam và được công nhận trong 54 dân tộc Việt Nam.[5][6] Tên tự gọi chung là Sán Ngái (山𠊎), có nghĩa là “người miền núi“. Là hậu duệ của người Xa[7], cùng với người Sán Dìu có chung 1 nguồn gốc.

Một số nhóm người Ngái ở miền nam Việt Nam còn được gọi là người Nùng, người Hải Phòng.[cần dẫn nguồn]

bản văn học của dân tộc bản địa Ngái

Tiếng mẹ đẻ của người Ngái là tiếng Ngái, 1 phương ngôn trong tiếng Khách Gia[8], nhưng người Ngái biết nhiều tiếng địa phương Khâm Liêm, Bình thoại. Tiếng nói của họ thuộc nhóm ngôn ngữ Hán (ngữ hệ Hán- Tạng).[9] Nhưng hiện nay những người trẻ tuổi của dân tộc Ngái chỉ biết tiếng Việt. Việc giữ lại tiếng mẹ đẻ không lạc quan.[8] Tiếng Ngái có thể chia thành 2 phương ngữ, Ngũ Thông Ngái (五硐𠊎 và Thay Trọng Ngái (大眾𠊎).

Dân số và địa phận cư trú[sửa|sửa mã nguồn]

Người Ngái cư trú rải rác ở nhiều tỉnh thành. Theo số liệu tìm hiểu dân số năm 1999 thì tại Nước Ta có 4.841 người Ngái. Các tỉnh thành tập trung chuyên sâu đông nhất là : Thái Nguyên, Bắc Giang, Đồng Nai, Tuyên Quang, Cao Bằng, TP Lạng Sơn, Đắk Lắk, Bình Thuận, Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh … Riêng ở thành phố Hồ Chí Minh, người Ngái có quan hệ thân mật với người Sán Dìu. Miếu Quan Âm Hộ Quốc ở Q. Tân Phú là khu vực hoạt động và sinh hoạt tâm linh chính của người Ngái ở TP.HCM.
Miếu Quan Âm Hộ Quốc ở Q. Tân Phú, TP Hồ Chí MinhTheo Tổng tìm hiểu dân số và nhà ở năm 2009, người Ngái ở Nước Ta chỉ còn 1.035 người, xuất hiện ở 27 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Ngái cư trú tập trung chuyên sâu tại những tỉnh :

Đặc điểm kinh tế tài chính[sửa|sửa mã nguồn]

Bữa cơm của người NgáiNgười Ngái sống đa phần bằng nghề làm ruộng trồng lúa. Ở vùng hải đảo, ven biển thì đánh cá là chính. Họ có truyền thống cuội nguồn đào kênh, mương, đắp đập, tạo hồ nước, đắp đê biển, có những nghề bằng tay thủ công như dệt chiếu, làm mành trúc, rèn, mộc, nung vôi, làm gạch ngói .Việc gieo trồng mùa vụ trong năm của họ địa thế căn cứ vào những hiện tượng kỳ lạ tự nhiên như : tiếng chim hót, lá cây rụng, hoa nở, … Họ xây những mương đập dài vài chục km để tưới tiêu. Người Ngái ở thành phố Hồ Chí Minh làm những nghề tiểu thủ công nghiệp như giày dép, tập trung chuyên sâu ở Q. 11, Tân Bình, Tân Phú, những tiểu thương nhỏ lẻ Chợ Lớn. Một số đã thành những doanh nghiệp lớn trong ngành giày dép, cao su đặc, …

Hôn nhân mái ấm gia đình[sửa|sửa mã nguồn]

Trong gia đình, người chồng là trụ cột chính, bình đẳng giữa vợ chồng và các mối quan hệ. Con cháu hòa thuận, hiếu thảo bề trên các bậc trưởng bối.
Xưa kia, trai gái Ngái được cha mẹ dựng vợ gả chồng phải trải qua hai lần cưới: lễ thành hôn và lễ nhập phòng. Để cưới vợ cho con, nhà trai chủ động chọn tìm đối tượng dạm hỏi. Khi có thai, phụ nữ Ngái kiêng cữ rất cẩn thận: không ăn ốc, thịt bò, dê, không may vá hay mua quần áo. Sau khi sinh con 60 ngày đối với con đầu, 40 ngày đối với con thứ, người sản phụ mới được đến nhà mẹ đẻ của mình.

Xem thêm: Yêu xa là gì

Họ nhà vợ, đại diện thay mặt là ông cậu có vai trò quan trọng trong mái ấm gia đình người Ngái. Ông cậu gọi là khảo, được coi như người cha của những chị em gái trong mái ấm gia đình. Khi những cháu gái sinh con, khảo đặt tên cho những cháu ngoại .

Tục lệ ma chay[sửa|sửa mã nguồn]

Theo phong tục Ngái, người chết được tổ chức triển khai đám ma chu đáo. Sau khi chôn cất được cúng vào dịp 21 ngày, 35 ngày, 42 ngày, 49 ngày, 63 ngày, 70 ngày, 3 năm thì làm lễ đoạn tang .
Người Ngái có lối hát giao duyên nam nữ, gọi là Sường cô, rất đa dạng chủng loại. Có thể hát đối nhau 5 đến 7 đêm liền vẫn không bị trùng lặp. Tục ngữ có ý nghĩa răn dạy về kinh nghiệm tay nghề làm ăn, về cách sống. Nhiều game show được ưa thích như múa sư tử, múa gậy, chơi rồng rắn .
Nhà cửa của người NgáiNgười Ngái thường lập thôn xóm ở sườn đồi, thung lũng hoặc ven biển, trên hòn đảo. Nhà phổ cập là nhà ba gian hai chái

Trang phục Ngái giống người Nùng và người Sán Dìu.[10] Ngoài quần áo, họ còn đội mũ, nón các loại tự làm từ lá, mây tre, đồng thời đội khăn, che ô.

Xem thêm
  • Các dân tộc ít người ở Việt Nam. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. 1978. “Dân tộc Hoa”: trang 388-395
  • Grant Evants (2000). Where China meets Southeast Asia: Social & Cultural Change in the Border Region. Palgrave Macmillan. ISBN 9780312236342. Chapter 13: Cross-Border Categories: Ethnic Chinese and the Sino-Vietnamese Border at Mong Cai
Rate this post