Luật Hồng Đức – Wikipedia tiếng Việt

Luật Hồng Đức là tên gọi thông dụng của bộ Quốc triều hình luật hay Lê triều hình luật, là bộ luật chính thức của nhà nước Đại Việt thời Lê sơ hiện còn được lưu giữ đầy đủ. Do các bộ luật của các triều đại phong kiến Việt Nam đều có tên gọi là Quốc triều hình luật nên ở đây dùng tên gọi Luật Hồng Đức làm tên gọi cho bài mặc dù nó không phải là tên gọi chính thức.

Nó hoàn toàn có thể coi là bộ luật tổng hợp gồm có nhiều quy phạm pháp luật thuộc nhiều nghành nghề dịch vụ pháp lý khác nhau như : Lĩnh vực luật hình sự, luật dân sự, luật tố tụng, luật hôn nhân-gia đình, luật hành chính, …

Văn bản của bộ luật này là một trong những thư tịch cổ nhất hiện còn được lưu trữ tại Viện nghiên cứu Hán-Nôm (Hà Nội). Tại đây có hai bản in ván khắc đều có tên là Quốc triều hình luật. Ngoài ra còn có một bộ sách chép tay tuy có tên gọi là Lê triều hình luật, nhưng nội dung của nó lại là bản sao lại của Quốc triều hình luật (thời Hậu Lê) và chép vào thời gian sau này.

Trong đó bản Quốc triều hình luật mang ký hiệu A.341 là bản in ván khắc hoàn chỉnh hơn cả và được coi là văn bản có giá trị nhất. Bộ luật trong sách này gồm 6 quyển, in ván khắc trên giấy bản, tổng cộng gồm 129 tờ đóng chung thành một cuốn. Sách không ghi tên tác giả, không có dấu hiệu niên đại soạn thảo hay niên đại in ấn và cũng không có lời tựa hoặc các chú dẫn khác. Bìa nguyên bản cuốn sách đã mất, được thay thế bằng một tờ bìa viết 4 chữ Hán là Quốc triều hình luật bằng bút lông. Nội dung của bộ luật này đã được Phan Huy Chú ghi chép lại trong phần Hình luật chí của Lịch triều hiến chương loại chí, nhưng thiếu so với cuốn sách này 143 điều trong tổng số 722 điều.

Trong số 722 điều của Quốc triều Hình luật thì 200 điều phỏng theo luật nhà Đường, 17 điều phỏng theo luật nhà Minh. Ngoài ra có 178 điều chung đề tài nhưng Quốc triều Hình luật đưa ra một giải pháp khác những triều đại Trung Quốc. Đáng chú ý quan tâm nhất là có 328 điều không tương ứng với điều luật nào của Trung Quốc cả. [ 1 ]Từ đầu thế kỷ 20, Quốc triều hình luật đã được khảo dịch sang tiếng Pháp. Đến năm 1956, nó mới được dịch sang quốc ngữ lần tiên phong ( bản dịch của Trường Đại học Luật khoa Hồ Chí Minh do Lương Thần Cao Nãi Quang phiên âm, và dịch nghĩa, Nguyễn Sĩ Giác hiệu đính, Vũ Văn Mẫu viết lời tựa, nhà in Nguyễn Văn Của phát hành, TP HCM, 1956 ). Gần đây, Viện Sử học Nước Ta đã dịch thuật lại cho chuẩn xác hơn. ( Nhà xuất bản Pháp lý, TP. Hà Nội – 1991 ) .

Một số học giả Pháp, khi khảo dịch và nghiên cứu cho rằng nó có tên là Lê triều hình luật và nó là Lê triều điều luật được in năm 1777 (Cảnh Hưng thứ 38) mà Phan Huy Chú đã ghi lại trong Lịch triều hiến chương loại chí sau khi họ nghiên cứu thiên Hình luật chí trong cuốn sách này của ông cũng như bản chép tay của Quốc triều hình luật. Theo Vũ Văn Mẫu, Quốc triều hình luật được ban bố lần đầu tiên trong khoảng niên hiệu Hồng Đức (1470-1497) và có lẽ vào thời gian cuối của niên hiệu này. Ý kiến của Vũ Văn Mẫu chủ yếu dựa vào ý kiến của Phan Huy Chú viết về việc ban hành dưới thời Lê, bộ Hồng Đức hình luật và lời đề tựa của vua Gia Long triều Nguyễn cho bộ Hoàng Việt luật lệ, trong đó ông đánh giá rất cao bộ luật cổ này và gọi nó là bộ luật Hồng Đức.

Theo Viện Sử học Việt Nam, Quốc Triều hình luật được khởi thảo từ thời Lê Thái Tổ, sau đó tiếp tục được bổ sung dưới các triều Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông. Tới thời Lê Thánh Tông thì bộ luật được hoàn chỉnh.[2] Các ý kiến này chủ yếu dựa vào Đại Việt sử ký toàn thư với ghi chép là năm Thái Hòa thứ 7 (1449), vua Lê Nhân Tông đã bổ sung thêm vào bộ hình luật chương điền sản gồm 14 điều. Ngoài ra, qua các sử sách khác và qua các lần in khắc ván (với những điểm khác nhau về nội dung của các văn bản), các bổ sung và tên gọi các đơn vị hành chính ghi trong bộ luật v.v có thể nhận thấy bộ luật này được soạn thảo, bổ sung, hiệu đính qua nhiều đời vua triều Lê.

Quốc triều hình luật trong cuốn sách A. 341 có 13 chương, ghi chép trong 6 quyển ( 5 quyển có 2 chương / quyển và 1 quyển có 3 chương ), gồm 722 điều. Ngoài ra, trước khi đi vào những chương và điều thì Quốc triều hình luật còn có những đồ biểu pháp luật về những hạng để tang và tang phục, size và những hình cụ ( roi, trượng, gông, dây sắt v.v ) .Bố trí đơn cử như sau : [ 3 ]

  1. Chương Danh lệ: 49 điều quy định về những vấn đề cơ bản có tính chất chi phối nội dung các chương điều khác (quy định về thập ác, ngũ hình, bát nghị, chuộc tội bằng tiền v.v)
  2. Chương Vệ cấm: 47 điều quy định về việc bảo vệ cung cấm, kinh thành và các tội về cấm vệ.
  3. Chương Vi chế: 144 điều quy định về hình phạt cho các hành vi sai trái của quan lại, các tội về chức vụ.
  4. Chương Quân chính: 43 điều quy định về sự trừng phạt các hành vi sai trái của tướng, sĩ, các tội quân sự.
  5. Chương Hộ hôn: 58 điều quy định về hộ tịch, hộ khẩu, hôn nhân-gia đình và các tội phạm trong các lĩnh vực này.
  6. Chương Điền sản: 59 điều, trong đó 32 điều ban đầu và 27 điều bổ sung sau (14 điều về điền sản mới tăng thêm, 4 điều về luật hương hỏa, 9 điều về châm chước bổ sung luật hương hỏa) quy định về ruộng đất, thừa kế, hương hỏa và các tội phạm trong lĩnh vực này.
  7. Chương Thông gian: 10 điều quy định về các tội phạm tình dục.
  8. Chương Đạo tặc: 54 điều quy định về các tội trộm cướp, giết người và một số tội chính trị như phản nước hại vua.
  9. Chương Đấu tụng: 50 điều quy định về các nhóm tội đánh nhau (ẩu đả) và các tội vu cáo, lăng mạ v.v
  10. Chương Trá ngụy: 38 điều quy định các tội giả mạo, lừa dối.
  11. Chương Tạp luật: 92 điều quy định về các tội không thuộc các nhóm tội danh trên đây.
  12. Chương Bộ vong: 13 điều quy định về việc bắt tội phạm chạy trốn và các tội thuộc lĩnh vực này.
  13. Chương Đoán ngục: 65 điều quy định về việc xử án, giam giữ can phạm và các tội phạm trong lĩnh vực này.

Hai chương cuối này đã có 1 số ít pháp luật về tố tụng, nhưng chưa hoàn hảo .

Các pháp luật dân sự[sửa|sửa mã nguồn]

Trong bộ luật Hồng Đức, những quan hệ dân sự được đề cập tới nhiều nhất là những nghành nghề dịch vụ như : quan hệ chiếm hữu, quan hệ hợp đồng và thừa kế ruộng đất .

Sở hữu và hợp đồng[sửa|sửa mã nguồn]

Bộ luật Hồng Đức đã phản ánh hai chính sách chiếm hữu ruộng đất trong thời kỳ phong kiến là : chiếm hữu nhà nước ( ruộng công / công điền / công thổ ) và chiếm hữu tư nhân ( ruộng tư / tư điền / tư thổ ) .Trong bộ luật Hồng Đức, do đã có chính sách lộc điền-công điền tương đối tổng lực về yếu tố ruộng đất công nên trong bộ luật này quyền sở hữu nhà nước về ruộng đất chỉ được bộc lộ thành những chế tài vận dụng so với những hành vi vi phạm chính sách sử dụng ruộng đất công như : không được bán ruộng đất công ( điều 342 ), không được chiếm ruộng đất công quá hạn mức ( điều 343 ), không được nhận bậy ruộng đất công đã giao cho người khác ( điều 344 ), cấm làm sai pháp luật phân cấp ruộng đất công ( điều 347 ), không để bỏ phí ruộng đất công ( điều 350 ), cấm biến ruộng đất công thành tư ( điều 353 ), không được ẩn lậu để trốn thuế ( điều 345 ) v.vBên cạnh đó việc bảo lãnh quyền sở hữu tư nhân / hợp đồng về ruộng đất tư cũng được pháp luật rõ ràng. Chẳng hạn, cấm xâm lấn ruộng đất của người khác ( điều 357 ), cấm tá điền tranh ruộng đất của chủ ( điều 356 ), cấm ức hiếp để mua ruộng đất của người khác ( điều 355 ) v.vQua một số ít pháp luật trên, hoàn toàn có thể thấy bộ luật đã kiểm soát và điều chỉnh ba loại hợp đồng về ruộng đất :Mua bán ruộng đấtCầm cố ruộng đấtThuê mướn ruộng đấtVề hình thức, những hợp đồng thường phải lập thành văn tự giữa những bên tham gia hợp đồng với sự xác nhận của quan viên có thẩm quyền .
Trong nghành thừa kế, quan điểm của những nhà làm luật Đại Việt thời Lê khá thân thiện với những quan điểm tân tiến về thừa kế. Cụ thể : Khi cha mẹ còn sống, không phát sinh những quan hệ về thừa kế nhằm mục đích bảo vệ và duy trì sự vĩnh cửu của mái ấm gia đình, dòng họ. Thứ hai là những quan hệ thừa kế theo di chúc ( những điều 354, 388 ) và thừa kế không di chúc ( thừa kế theo luật ) với những điều 374 – 377, 380, 388. Điểm đáng chú ý quan tâm trong bộ luật Hồng Đức, người con gái có quyền thừa kế ngang bằng với người con trai ( trong trường hợp người con trai trưởng mất hoặc chết trước đó – Xem thêm Lịch Triều Hiến Chương Loại chí – Tập 2 – Hình Luật Chí ). Đây là một điểm văn minh không hề thấy ở những bộ luật phong kiến khác. Thứ ba, bộ luật đã phân định về nguồn gốc gia tài của vợ chồng, gồm có : gia tài riêng của mỗi người và gia tài chung của cả hai vợ chồng. Việc phân định này góp thêm phần xác lập việc phân loại thừa kế cho những con khi cha mẹ đã chết hoặc chia gia tài cho bên còn sống nếu một trong hai vợ hoặc chồng chết trước. Thừa kế chính là điểm điển hình nổi bật nhất của lao lý triều Lê .

Trách nhiệm dân sự[sửa|sửa mã nguồn]

Luật Hồng Đức cũng lao lý nghĩa vụ và trách nhiệm dân sự của những bên tham gia quan hệ, với những nội dung khá ngặt nghèo, đơn cử. Bên cạnh những nội qui trên trẻ nhỏ cũng cần được chăm nom kĩ càng và giáo dục đặc biệt quan trọng với 3 tiêu chuẩn 1. không đấm đá bạo lực 2. không đánh đập 3. giáo dục tốt. Với 3 tiêu chuẩn trên để người dân biết nhà nước rất chăm sóc đến trẻ nhỏ bởi trẻ nhỏ là tương lai của quốc gia là rường cột của quê nhà

Các quy định hình sự[sửa|sửa mã nguồn]

Các nguyên tắc chủ yếu[sửa|sửa mã nguồn]

Hình luật là nội dung trọng điểm và có đặc thù chủ yếu, bao trùm hàng loạt nội dung của bộ luật. Các nguyên tắc hình sự đa phần của nó là :

  • Vô luật bất thành hình (điều 642, 683, 685, 708, 722): trong đó quy định chỉ khép tội khi trong bộ luật có quy định, không thêm bớt tội danh, áp dụng đúng hình phạt đã quy định và nó là tương tự như trong các bộ luật hình sự hiện đại.
  • Chiếu cố (điều 1, 3-5, 8, 10, 16, 17, 680): trong đó quy định các chiếu cố đối với địa vị xã hội, tuổi tác (trẻ em và người già cả), tàn tật, phụ nữ v.v
  • Chuộc tội bằng tiền (điều 6, 16, 21, 22, 24): đối với các tội danh như trượng, biếm, đồ, khao đinh, tang thất phụ, lưu, tử, thích chữ. Tuy nhiên các tội thập ác (mười tội cực kỳ nguy hiểm cho chính quyền) và tội đánh roi (có tính chất răn đe, giáo dục) không cho chuộc.
  • Trách nhiệm hình sự (điều 16, 35, 38, 411, 412): trong đó đề cập tới quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và việc chịu trách nhiệm hình sự thay cho người khác.
  • Miễn, giảm trách nhiệm hình sự (điều 18, 19, 450, 499, 553): trong đó quy định về miễn, giảm trách nhiệm hình sự trong các trường hợp như tự vệ chính đáng, tình trạng khẩn cấp, tình trạng bất khả kháng, thi hành mệnh lệnh, tự thú (trừ thập ác, giết người).
  • Thưởng người tố giác, trừng phạt người che giấu (điều 25, 39, 411, 504)
  • Phân loại theo hình phạt (ngũ hình và các hình phạt khác)
  • Theo sự vô ý hay cố ý phạm tội
  • Theo âm mưu phạm tội và hành vi phạm tội
  • Tính chất đồng phạm

Các nhóm tội đơn cử[sửa|sửa mã nguồn]

  • Thập ác: Là 10 trọng tội nguy hiểm nhất như:
    • Các tội liên quan đến vương quyền: mưu phản, mưu đại nghịch (điều 2, 411), mưu bạn (phản bội tổ quốc-điều 412), đại bất kính (430, 431).
    • Các tội liên quan đến quan hệ hôn nhân-gia đình: ác nghịch (điều 416), bất hiếu (nhiều điều, chẳng hạn điều 475), bất mục, bất nghĩa, nội loạn.
    • Tội liên quan đến tiêu chí đạo đức hàng đầu của Nho giáo: bất đạo (420 và 421).
  • Các nhóm tội phạm khác: bao gồm các tội liên quan đến sự an toàn thân thể của vua, nghi lễ cung đình, xâm phạm trật tự công cộng, quản lý hành chính, thể thức nghi lễ triều đình, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm con người, các tội xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, các tội phạm quân sự, xâm phạm chế độ sở hữu ruộng đất, xâm phạm chế độ hôn nhân-gia đình, các tội tình dục, các tội xâm phạm chế độ tư pháp v.v

Quan niệm về hình phạt trong bộ luật khá chi tiết cụ thể nhưng cứng ngắc với khung hình phạt thường là cố định và thắt chặt, tuy rằng có tính đến những diễn biến tăng nặng hay giảm nhẹ ( điều 41 ) .Các hình phạt đơn cử có ngũ hình và những hình phạt khác .
Ngũ hình được lao lý tại điều 1 và gồm có : xuy, trượng, đồ, lưu, tử .

  • Xuy (đánh bằng roi) có 5 bậc: 10, 20, 30, 40, 50 roi, có thể kèm phạt tiền và biếm chức, áp dụng cả cho nam và nữ.
  • Trượng (đánh bằng gậy) cũng có 5 bậc: 60, 70, 80, 90 và 100 trượng, chỉ áp dụng cho nam.
  • Đồ có 3 bậc là:
    • Dịch đinh kèm 80 trượng cho nam và dịch phụ kèm 50 roi cho nữ. Dịch đinh/dịch phụ có nhiều hạng là:
      • Thuộc đinh: phục dịch ở các viện (dành cho quan chức có tội)
      • Quân đinh: phục dịch ở các sảnh
      • Khao đinh: phục dịch ở trong trại lính
      • Xã đinh: phục dịch ở các xã (dành cho thường dân nam có tội)
      • Thứ phụ: phục dịch công việc ở làng (dành cho thường dân nữ có tội)
      • Viên phụ: làm các công việc trong vườn và đánh 10 roi (dành cho vo quan)
      • Tang thất phụ: phục dịch ở các nơi nuôi tằm, nếu phạm tội nặng
    • Tượng phường binh (quét dọn chuồng voi kèm 80 trượng và thích 2 chữ vào mặt) cho nam và xuy thất tỳ (nấu cơm nuôi quân kèm 50 roi và thích 2 chữ vào cổ) cho nữ.
    • Chủng điền binh (lính lao động ở đồn điền của nhà nước kèm 80 trượng và thích vào cổ 4 chữ, phải đeo xiềng) cho nam và thung thất tỳ (xay thóc giã gạo trong các kho thóc thuế của nhà nước kèm 50 roi và thích vào cổ 4 chữ) cho nữ.
  • Lưu tức lưu đày đi nơi xa, có 3 bậc là:
    • Lưu cận châu, đày đi làm việc nặng ở Nghệ An với hình phạt phụ là thích vào mặt 6 chữ, đánh 90 trượng, đeo xiềng dành cho nam và đánh 50 roi cho nữ.
    • Lưu ngoại châu: Lưu đày đến Bố Chính, Quảng Bình. Phụ hình có 90 trượng, thích 8 chữ vào mặt, đeo xiềng 2 vòng dành cho nam và đánh 50 roi cho nữ.
    • Lưu viễn châu: đày đi Cao Bằng. Phụ hình gồm 100 trượng, thích 10 chữ vào mặt, đeo xiềng 3 vòng cho nam, đánh 50 roi cho nữ.
  • Tử (giết chết) có 3 bậc là:
    • Trảm cả nhà
    • Giảo (thắt cổ), trảm (chém đầu)
    • Khiêu (chém bêu đầu)
    • Lăng trì (tùng xẻo) tức xẻo từng miếng thịt rồi mổ bụng, moi ruột cho đến chết, tiep theo còn bị cắt rời chân tay và bẻ gãy hết xương, sau đó đem chôn lấp

Các hình phạt khác[sửa|sửa mã nguồn]

Ngoài ngũ hình, luật Hồng Đức còn vận dụng những hình phạt khác như :

  • Biếm tư (điều 27, 46) bao gồm các bậc từ 1 đến 5 tư nhưng có quy định cho chuộc tội biếm bằng tiền theo điều 22. Biếm tư có thể được hiểu như một hình thức làm hạ thấp tư cách của người bị phạt. Ngoài ra người bị phạt biếm tư còn phải chịu hình phạt đánh roi (xuy hoặc trượng).
  • Phạt tiền (điều 26) có 3 bậc: 300-500 quan, 60-200 quan và 5-50 quan. Ngoài ra còn có quy định về tiền bồi thường tang vật (điều 28), tiền đền mạng (điều 29).
  • Tịch thu tài sản có 2 bậc là tịch thu toàn bộ gia sản (nặng theo điều 426, 430) và tịch thu một phần tài sản (nhẹ, các điều 88, 523)
  • Thích chữ vào cổ hoặc mặt: Được áp dụng như là hình phạt phụ đối với các tội lưu, đồ, trượng, xuy.
  • Xung vợ con làm nô tỳ. Chỉ áp dụng đối với các tội mưu phản, mưu đại nghịch, mưu bạn trong thập ác (điều 411, 412).

Các lao lý trong hôn nhân-gia đình[sửa|sửa mã nguồn]

Các nguyên tắc cơ bản trong nghành hôn nhân gia đình của bộ luật là : hôn nhân gia đình không tự do, đa thê và xác lập chính sách mái ấm gia đình gia trưởng. Nó biểu lộ lễ nghĩa Nho giáo, trật tự xã hội-gia đình phong kiến, tuy nhiên vẫn có 1 số ít điểm văn minh .
Trong nghành hôn nhân gia đình, bộ luật đã kiểm soát và điều chỉnh những quan hệ như kết hôn, chấm hết hôn nhân gia đình ( do chết hoặc ly hôn ) .

Trong quan hệ kết hôn, luật quy định các điều kiện để có thể kết hôn là: có sự đồng ý của cha mẹ (điều 314), không được kết hôn giữa những người trong họ hàng thân thích (điều 319), cấm kết hôn khi đang có tang cha, mẹ hay chồng (điều 317), cấm kết hôn khi ông, bà, cha hay mẹ đang bị giam cầm, tù tội (điều 318), cấm anh (em) lấy vợ góa của em (anh), trò lấy vợ góa của thầy (điều 324), với một số quy định khác trong các điều 316, 323, 334, 338, 339. Tuy nhiên,Quốc triều hình luật không quy định tuổi kết hôn, mặc dù trong Thiên Nam dư hạ tập (phần lệ Hồng Đức hôn giá) có viết: “Con trai 18 tuổi, con gái 16 tuổi mới có thể thành hôn”, có lẽ là do đã tồn tại một văn bản khác cùng thời quy định về điều này. Luật Hồng Đức cũng quy định về hình thức và thủ tục kết hôn như đính hôn và thành hôn (các điều 314, 315, 322). Lưu ý là Quốc triều hình luật luật cho thấy cuộc hôn nhân có giá trị pháp lý từ sau lễ đính hôn. Ví dụ điều 315 quy định: Gả con gái đã nhận đồ sính lễ mà lại thôi không gả nữa thì phải phạt 80 trượng…Còn người con gái phải gả cho người hỏi trước. Tuy nhiên, nếu trong thời gian từ lễ đính hôn cho đến khi thành hôn mà một trong hai bên bị ác tật hay phạm tội thì bên kia có quyền từ hôn.

Chấm dứt hôn nhân gia đình[sửa|sửa mã nguồn]

Luật Quốc triều hình luật lao lý những trường hợp chấm hết hôn nhân gia đình là : một trong hai người đã chết hoặc ly hôn .Về trường hợp chấm hết hôn nhân gia đình do một trong hai người đã chết cần chú ý quan tâm là quan hệ hôn nhân gia đình chỉ thực sự chấm hết ngay nếu người chết là vợ, còn nếu là chồng chết thì nó chỉ chấm hết sau khi mãn tang. Quy định này được đặt ra một cách gián tiếp trong những điều 2 và 320 .

Về trường hợp ly hôn có ba nhóm sau:

  1. Buộc phải ly hôn (các điều 317, 318, 323, 324, 334) do hôn nhân đã vi phạm các quy định cấm kết hôn.
  2. Ly hôn do lỗi của người vợ: Điều 310 quy định người chồng phải ly hôn khi người vợ phạm phải điều nghĩa tuyệt (đoạn tuyệt hết ân nghĩa vợ chồng) như: không con, ghen tuông, ác tật (mắc các bệnh như phong, hủi), dâm đãng, không kính cha mẹ, lắm lời, trộm cắp.
  3. Ly hôn do lỗi của người chồng: Điều 308 quy định: “Phàm chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại (vợ được trình với quan sở tại và xã quan làm chứng) thì mất vợ”. Quy định như vậy quyền lợi của người phụ nữ đã được bảo đảm và quan trọng hơn nó cũng trở thành cơ sở để người chồng phải thực hiện tốt nghĩa vụ của mình đối với vợ, với gia đình. Đây là quy định nổi bật phản ánh tính sáng tạo của nhà làm luật nhằm duy trì trật tự ổn định trong gia đình.

Quan hệ mái ấm gia đình[sửa|sửa mã nguồn]

Trong nghành quan hệ mái ấm gia đình, bộ luật đã kiểm soát và điều chỉnh những quan hệ như quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cháu, giữa những quen thuộc khác ( vợ cả-vợ lẽ, anh-chị-em, cha mẹ-con nuôi, vai trò của người tôn trưởng tức trưởng họ ) .

  • Quan hệ vợ-chồng: Phong tục tập quán và lễ nghĩa Nho giáo đã điều chỉnh quan hệ vợ-chồng, tuy nhiên Quốc triều hình luật cũng có các quy định nhằm điều chỉnh các quyền và nghĩa vụ nhân thân như: Nghĩa vụ phải chung sống tại một nơi và phải có trách nhiệm với nhau (các điều 321 và 308, 309), không được ngược đãi vợ (điều 482), nghĩa vụ chung thủy (điều 401, 405), nghĩa vụ để tang nhau (các điều 2, 7).
  • Quan hệ cha mẹ-con cái: Đề cập tới các nghĩa vụ và quyền nhân thân của con cái, bao gồm: nghĩa vụ phải vâng lời và phụng dưỡng cha mẹ, ông bà (khoản 7 điều 2), nghĩa vụ chịu tội roi, trượng thay cho ông bà, cha mẹ (điều 38), nghĩa vụ không được kiện cáo ông bà-cha mẹ (điều 511), nghĩa vụ che giấu tội cho ông bà, cha mẹ (các điều 9, 504), ngoại trừ trường hợp cha mẹ hay ông bà phạm các tội mưu phản, mưu đại nghịch, cha mẹ nuôi giết con đẻ hay mẹ đẻ-mẹ kế giết cha thì được phép tố cáo và nghĩa vụ để tang ông bà-cha mẹ (điều 2).
  • Quan hệ nhân thân khác: Đề cập tới quan hệ giữa vợ cả-vợ lẽ (các điều 309, 481, 483, 484) và nhà chồng, anh-chị-em (các điều 487, 512), nuôi con nuôi (các điều 380, 381, 506) và vai trò của người trưởng họ (điều 35).

Trong quan hệ vợ cả-vợ lẽ thì ngoài những lao lý về những nghĩa vụ và trách nhiệm của họ với chồng và nhà chồng thì họ cũng phải tuân thủ trật tự thê thiếp và vợ cả nói chung được ưu tiên hơn. Về quan hệ anh-chị-em thì người anh trưởng có quyền và nghĩa vụ và trách nhiệm so với những em, nhất là khi cha mẹ đã chết, đồng thời cũng bảo vệ sự hòa thuận trong mái ấm gia đình ( phạt nặng đánh lộn, kiện cáo nhau ). Việc nhận nuôi con nuôi phải được lập thành văn bản và phải đối xử như con đẻ cũng như ngược lại, con nuôi phải có nghĩa vụ và trách nhiệm như con đẻ so với cha mẹ nuôi .

Các pháp luật tố tụng[sửa|sửa mã nguồn]

Mặc dù không được tách bạch ra thành những chương riêng rẽ, nhưng Quốc triều hình luật đã biểu lộ 1 số ít khái niệm của luật tố tụng tân tiến như :

  • Thẩm quyền và trình tự tố tụng của các cấp chính quyền (điều 672)
  • Thủ tục tố tụng (phần lớn của hai chương cuối) như đơn kiện- đơn tố cáo (các điều 508, 513, 698), thủ tục tra khảo (các điều 546, 660, 665, 667, 668, 714, 716), thủ tục xử án (các điều 671, 709), phương pháp xử án (các điều 670, 683, 686, 708, 714, 720, 722), thủ tục bắt người (các điều 646, 658, 659, 663, 676, 680, 701-704).

Qui phạm pháp lý trong Bộ luật Hồng Đức[sửa|sửa mã nguồn]

1. Đa phần những qui phạm pháp lý trong Bộ luật Hồng Đức được kiến thiết xây dựng theo phương pháp Open vừa đủ cả ba bộ phận là giả định, pháp luật và chế tài trực tiếp .Ví dụ Điều 585 : ” Trâu của 2 nhà đánh nhau, con nào chết thì 2 nhà cùng ăn thịt, con nào sống thì 2 nhà cùng cày, trái luật thì sẽ xử phạt 80 trượng. ” .Trong đó : Trâu của 2 nhà đánh nhau là bộ phận giả định ; con nào chết thì 2 nhà cùng ăn thịt, con nào sống thì 2 nhà cùng cày là bộ phận pháp luật ; trái luật thì sẽ xử phạt 80 trượng là bộ phận chế tài .Điều 89 : ” Trước sau ngày nhà vua lên ngôi một tháng, cấm những nhà tại trong kinh thành cử hành việc tang, người nào phạm phải thì phạt 50 roi, biếm một tư ” .Trong đó : Trước sau ngày nhà vua lên ngôi một tháng là bộ phận giả định ; cấm những nhà tại trong kinh thành cử hành việc tang là bộ phận lao lý ; trái luật thì sẽ xử phạt 50 roi, biếm một tư là bộ phận chế tài .Với cách miêu tả hành vi vi phạm pháp lý và chế tài so với chủ thể triển khai hành vi đó rõ ràng như vậy, người dân sẽ biết được hành vi nào nên làm, hành vi nào nên tránh, tạo điều kiện kèm theo để toàn thể mọi những tầng lớp nhân dân hiểu luật. Quan xử án cũng biết được cần phải xử như thế nào .2. Có nhiều qui phạm trong Bộ luật Hồng Đức diễn đạt ngắn một trường hợp đơn cử. Điều này khiến qui phạm trở nên rõ ràng với người dân .Ví dụ Điều 393 : ” Người cha lấy vợ trước sinh được một con trai, phần hương hoả đã giao cho giữ ; nhưng người con trai ấy lại chỉ sinh được một người con gái ; mà cha có vợ lẽ hay nàng hầu lại sinh được một con trai nhưng lại bị cố tật, người con trai cố tật ấy sinh được cháu trai, thì ruộng đất hương hoả phải giao cho người cháu trai con kẻ cố tật, để tỏ ra rằng dòng họ không hề để tuyệt. ” .Hoặc Điều 395 : ” Cha mẹ sinh được hai con trai, người con trai trưởng chỉ sinh con gái, con thứ lại có con trai thì phần hương hỏa giao cho con trai người con thứ ; nhưng con trai người con thứ chỉ sinh cháu gái thì phần hương hỏa trước kia lại phải giao trả cho con gái người con trưởng ” .Ưu điểm của cách lao lý ngắn gọn một trường hợp, ngoài việc dễ thuộc, dễ nhớ, dễ vận dụng còn cho thấy từ một yếu tố pháp lý khá phức tạp đã được chuyển hóa thành một trường hợp rất đơn thuần .3. Bộ luật Hồng Đức có cách pháp luật chế tài dưới dạng chế tài cố định và thắt chặt. Với mỗi một vi phạm đơn cử thì có một hình phạt đơn cử tương ứng ; mức độ tăng nặng hay giảm nhẹ cũng được pháp luật ngay sau đó một cách đơn cử, rõ ràng .Ví dụ Điều 466 : ” Đánh gãy răng, sứt tai mũi, chột 1 mắt, gãy ngón chân, ngón tay, giập xương, hay lấy nước sôi, lửa làm người bị thương và rụng tóc, thì xử tội đồ làm khao đinh. Lấy đồ nhơ bẩn ném vào đầu mặt người ta thì xử biếm 2 tư ; đổ vào miệng mũi thì biếm 3 tư. Đánh gãy 2 răng, 2 ngón tay trở lên thì xử tội đồ làm tượng phường binh. Lấy gươm giáo đâm chém người, dẫu không trúng cũng phải lưu đi châu gần ( người quyền quý và cao sang phạm tội thì xử tội biếm ). Nếu đâm chém bị thương và làm đứt gân, chột 2 mắt, đoạ thai thì xử tội lưu đi châu xa. Nếu trong khi đương xét hỏi, người bị thương lại bình phục, thì tội nhân được giảm tội 2 bậc. Nếu đánh bị thương 2 người trở lên và nhân bị thương mà thành cố tật, hay đánh đứt lưỡi, huỷ hoại âm, dương vật đều xử tội giảo ; và phải đền tiền thương tổn như lệ định. Với chế tài cố định và thắt chặt này, nó đã bảo vệ tính đúng mực trong việc vận dụng luật của những cơ quan Nhà nước, tránh được sự tuỳ tiện trong việc vận dụng luật ” .Việc thiết kế xây dựng những chế tài cố định và thắt chặt trong Bộ luật Hồng Đức ở một chừng mực nhất định rất thuận tiện cho việc vận dụng, và có ưu điểm là tránh được sự tùy tiện trong việc vận dụng .4. Trong Bộ luật Hồng Đức từ một sự kiện hay vấn đề, nhà làm luật lường tính những yếu tố phát sinh xung quanh vấn đề đó .Ví dụ Điều 234 : ” Những quan coi quân đội ở những trấn, lộ hay huyện cùng những quan viên trong những cục những viện, đi lại giao kết với nhau, mưu thao tác phản nghịch, mà quan ty quản giám chẳng lưu tâm xem xét, hay dung túng giấu giếm không tâu lên, thì cùng với người phản nghịch cùng một tội ; nếu đã tâu lên mà lại ngầm sai người báo cho kẻ phản nghịch biết thì tội cũng thế. Nếu vì tâu lên không giữ kín kẽ để cho kẻ phản nghịch biết thì viên quan tâu được giảm tội 1 bậc. Nếu việc mưu phản nghịch đã lộ, việc hung tàn đã rõ, mà quan giám không xét tình thế mà lung bắt và tâu lên, thì bị tội như tội đồng mưu ; nếu việc mưu phản chưa lộ thì được giảm nhẹ hai bậc. ” [ 4 ]
Giống như những bộ luật phong kiến khác, luật Hồng Đức biểu lộ rõ thực chất giai cấp của nó. Mục tiêu số 1 của nó là để bảo vệ vương quyền, vị thế và quyền hạn của giai cấp phong kiến, củng cố trật tự xã hội và mái ấm gia đình gia trưởng phong kiến. Nó là sự pháp điển hóa tư tưởng chính trị và đạo đức Nho giáo. Tuy vậy, không hề phủ nhận những điểm rực rỡ và tân tiến của nó .

Luật Trung Quốc[sửa|sửa mã nguồn]

Luật Hồng Đức tiếp thụ nhiều thành tựu lập pháp của Trung Quốc, chịu tác động ảnh hưởng của cả pháp luật nhà Đường và nhà Minh. Tuy vậy, nó có những điểm không giống với những bộ luật của nhà nước phong kiến Trung Quốc cả về nội dung lẫn bố cục tổng quan .Về bố cục tổng quan, bộ Đường luật có 500 điều chia thành 12 chương ( Danh lệ, Vệ cấm, Chức chế, Hộ hôn, Khai khố, Thiện hưng, Đạo tặc, Đấu tụng, Trá ngụy, Tạp luật, Bộ vong, Đoán ngục ) trong 30 quyển. Có thể thấy, trong luật Hồng Đức những pháp luật về những nhóm tội tình dục và những yếu tố ruộng đất được pháp luật riêng không liên quan gì đến nhau và đơn cử hơn .Về nội dung, những lao lý về hôn nhân-gia đình, điền sản của luật Hồng Đức được chú trọng hơn so với Đường luật ( lao lý đơn cử về văn tự, chúc thư, chính sách và phương pháp chia thừa kế, gia tài của vợ-chồng khi góa bụa v.v ). Chính do đó, sau này những tòa án nhân dân thời Pháp thuộc hay Tòa thượng thẩm TP HCM thời Nước Ta Cộng hòa hay dựa trên những pháp luật này của luật Hồng Đức để phân xử những vụ kiện tụng tương quan tới gia tài vợ-chồng .

Bộ luật nhà Nguyễn[sửa|sửa mã nguồn]

So với bộ Hoàng Việt luật lệ (hay luật Gia Long) (năm 1811) ra đời sau hàng thế kỷ, có thể thấy luật Hồng Đức chưa có tính khái quát hóa cao và phân ngành rõ như Hoàng Việt luật lệ. Tuy nhiên, mức bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong luật Hồng Đức lại cao hơn so với Hoàng Việt luật lệ. Như giáo sư Vũ Văn Mẫu đã viết khi nhận xét về Hoàng Việt luật lệ: “bao nhiêu những sự tân kỳ mới lạ trong bộ luật triều Lê đã không còn lưu lại một chút dấu tích nào trong luật nhà Nguyễn. Không còn những điều khoản liên quan đến hương hỏa, đến chúc thư, đến các điều kiện về giá thú, đến chế độ tài sản của vợ chồng.”[5]

Ngoài ra, Luật Hồng Đức còn được nhìn nhận là nhẹ hơn những triều đại trước và nhẹ hơn luật của nhà Nguyễn sau này, có cả sự phân biệt trừng phạt người phạm tội còn nhỏ tuổi hoặc tàn tật. [ 6 ]

Các điểm tân tiến[sửa|sửa mã nguồn]

Điểm tân tiến trong luật Hồng Đức là nó có một tiến khá cơ bản trong việc cải tổ vị thế của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Vai trò của người phụ nữ đã được đề cao hơn rất nhiều so với những bộ luật đương thời trong khu vực. Nó cho thấy người vợ có quyền quản lý tài sản của mái ấm gia đình ( khi chồng chết ) và họ có quyền thừa kế như phái mạnh. [ 7 ]Điểm thứ hai, là hình phạt cho phạm nhân nữ khi nào cũng thấp hơn so với phạm nhân nam. Ví dụ : Điều 1 lao lý trượng hình chỉ đàn ông phải chịu : ” Từ 60 cho đến 100 trượng, chia làm 5 bậc : 60 trượng, 70 trượng, 80 trượng, 90 trượng, 100 trượng, tuỳ theo tội mà thêm bớt. Xử tội này hoàn toàn có thể cùng với tội lưu, tội đồ, biếm chức, hoặc xử riêng chỉ đàn ông phải chịu. ” Điều 680 : ” Đàn bà phải tội tử hình trở xuống nếu đang có thai, thì phải để sinh đẻ sau 100 ngày mới đem hành hình. Nếu chưa sinh mà đem hành hình thì ngục quan bị xử biếm hai tư ; ngục quản bị đồ làm bản cục đinh. Dù đã sinh rồi, nhưng chưa đủ hạn một trăm ngày mà đem hành hình, thì ngục quan và ngục lại bị tội nhẹ hơn tội trên hai bậc. Nếu đã đủ 100 ngày mà không đem hành hình, thì ngục quan hay ngục lại bị tội biếm hay tội phạt ” ..Điểm thứ ba, nó biểu lộ chủ trương trọng nông của triều Lê. Bộ luật trừng phạt rất nặng những tội như phá hoại đê điều ( điều 596 ), chặt phá cây cối và lúa má của người khác ( điều 601 ), tự tiện giết trâu ngựa ( điều 580 ) v.v Những điều luật trong Quốc Triều Hình Luật đã xác lập nghĩa vụ và trách nhiệm của nhà nước trải qua nghĩa vụ và trách nhiệm của mạng lưới hệ thống quan lại nhằm mục đích bảo vệ đời sống tối thiểu của người nghèo khó trong xã hội ( Điều 294 ; Điề9Điểm thứ tư, luật Hồng Đức có nhiều pháp luật biểu lộ đặc thù nhân đạo, thể ho vệ dân thường. Ví dụ : Điều 17 Quốc Triều Hình Luật pháp luật : ” Khi phạm tội chưa già cả tàn tật, đến khi gàn tật mới bị phát hiện thì xử theo luật già cả tàn tật. Khi ở nơi bị đồ thì già cả tàn tật cũng thế. Khi còn nhỏ bé phạm tội thì xử theo luật lúc còn nhỏ “. Quốc Triều Hình Luật còn biểu lộ chủ trương khoan hồng so với người phạm tội tuy chưa bị phát hiện và tự thú trước ( trừ phạm tội thập ác hoặc giết người ). Điều 18 và điều 19 : ” Phàm ăn trộm tài vặt của người sau lại tự thú với người mất của thì cũng coi như là thú ởửa quan “. Điều 21, 22, 23, 24 của Quốc Triều Hình Luật lao lý cho chuộc tội bằng tiền ( trừ hình phạt đánh roi vì cho rằng đánh roi có đặc thù răn bảo dạy dỗ nên không phải cho chuộc ) .Điểm thứ năm, luật Hồng Đức vừa tiếp thu có tinh lọc tư tưởng của Nho giáo vừa phát huy những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc bản địa. Ví dụ : Điều 40 : ” Những người miền thượng du ( miền núi, miền đồng bào dân tộc bản địa ít người cư trú ) cùng phạm tội với nhau thì theo phong tục xứ ấy mà định tội. Những người thượng du phạm tội với người trung châu ( miền trung du và miền đồng bằng ) thì theo luật mà định tội. “. Có thể nói đây là một trong những điều luật biểu lộ rõ nhất tính phát minh sáng tạo của nhà làm luật. Điểm mê hoặc của lao lý này ở chỗ pháp luật dù có hoàn bị đến đâu cũng không hề phủ nhận hoặc thay thế sửa chữa trọn vẹn vai trò của phong tục tập quán vốn dĩ đã sống sót lâu bền hơn trước cả khi có luật. [ 8 ]
Cùng thời :
Thời nhà Nguyễn :

  • Viện sử học (2007), Lịch sử Việt Nam, tập 3, Nhà xuất bản Khoa học xã hội
  1. ^

    Nguyễn Ngọc Huy. Quốc triều Hình luật Quyển A. Viet Publisher, 1989. tr 177

  2. ^ Viện Sử học, sách đã dẫn, tập 3, tr 260
  3. ^ Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 260
  4. ^ Nguyễn Minh Tuấn, Nét độc lạ của qui phạm pháp lý trong Bộ luật Hồng Đức, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp ( Hiến kế Lập pháp ), Số 33 ( 118 ), Tháng 3/2008, tr. 49 – 51
  5. ^

    Vũ Văn Mẫu, Cổ luật Việt Nam và tư pháp sử, quyển 1, tập 1, Sài Gòn, 1973

  6. ^ Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 263
  7. ^ Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 264
  8. ^ Nguyễn Minh Tuấn, Những giá trị tích cực của Nho giáo trong Bộ luật Hồng Đức, Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà nội, Chuyên san Kinh tế – Luật, T.XX, No 4, 2004, trang 39-44

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Rate this post