Tứ diệu đế – Wikipedia tiếng Việt

Tứ diệu đế (chữ Hán: 四妙諦, tiếng Bắc Phạn catvāry āryasatyāni, tiếng Nam Phạn cattāri ariya-saccāni, tiếng Tây Tạng bden pa bzhi བདེན་པ་བཞི་), cũng gọi là Tứ thánh đế (zh. 四聖諦), là bốn chân lý cao cả, là gốc cơ bản của Phật giáo. Tứ diệu đế là nội dung trong số kinh nghiệm giác ngộ của Phật Thích-ca Mâu-ni, và cũng là nội dung chính đầu tiên của bài kinh Kinh Chuyển pháp luân.

Tứ Diệu Đế là một giải pháp đủ cả hai ” triết lý và thực hành thực tế “, đưa hành giả tới giác ngộ giải thoát. Tứ Diệu Đế yên cầu có sự tu tập thực hành thực tế trong đời sống hàng ngày, nếu chỉ triết lý chỉ là giả thuyết .
Bia đá cổ minh hoạ Tứ diệu đế

Hiện nay giáo lý Tứ Diệu Đế là cốt lõi quan trọng nhất đã được tất cả các Tông phái công nhận như là điểm chung đồng và thuần túy nhất của đạo Phật. Thông suốt được những điểm giáo lý này có thể được xem như đã thâm nhập toàn bộ con đường giác ngộ giải thoát của Ðức Phật. Sau khi thành tựu Phật quả dưới cội bồ đề, tại Varanasi, đức Phật đã thuyết giảng bài pháp đầu tiên để chia sẻ thành tựu giác ngộ với 5 anh em Kiều Trần Như (Añña Koṇḍañña). Trong lần thuyết pháp ấy, Phật giảng về nền tảng của toàn bộ Phật pháp: Tứ diệu đế.

Bài pháp này khởi đầu ” thời kỳ chuyển bánh xe chánh pháp thứ nhất ” gọi là Tiểu thừa. Chữ chánh pháp ở đây dùng để chỉ lời giáo huấn của Phật .

Ý nghĩa của Tứ Diệu Đế[sửa|sửa mã nguồn]

Tứ diệu đế là chân lý về khổ [ Khổ đế ] chân lý về nguyên do của khổ [ Tập đế ], chân lý về năng lực chấm hết khổ [ Diệt đế ], và chân lý về con đường dẫn đến sự thoát khổ [ Ðạo đế ] .

Nói cho thật ngắn gọn, Tứ diệu đế dạy rằng ai cũng muốn hạnh phúc, không ai muốn khổ đau. Khổ đau mà chúng ta đều muốn tránh, vốn là kết quả của chuỗi nhân quả có từ trước khi chúng ta ra đời. Nếu muốn hoàn thành nguyện vọng thoát khổ, cần phải hiểu rõ nhân duyên của khổ, nghĩa là vì sao mà có khổ, khổ phát sinh trong trường hợp nào, rồi dựa vào đó mà nỗ lực diệt trừ cái khổ.

Ngoài ra, nhân duyên của niềm hạnh phúc cũng rất quan trọng, tất cả chúng ta cần hiểu rõ để hoàn toàn có thể dữ thế chủ động mang niềm hạnh phúc về. Ðó chính là tinh túy của Tứ diệu đế .

Xây dựng xong nền tảng giải thoát bằng Tứ diệu đế, đức Phật khai triển rộng hơn, dạy về ba mươi bảy nấc thang trên đường tu giải thoát, được gọi là ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Ba mươi bảy phẩm này dạy cặn kẽ phương pháp tu theo Tứ diệu đế, bao gồm hai thành phần: chỉ (shamata) và quán (vipashana). Trong số ba mươi bảy phẩm trợ đạo, có nhiều phẩm liên quan đến cả hai sắc thái đặc biệt này của Tâm.

Bốn phẩm đầu trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo là bốn cơ sở tỉnh giác [ tứ niệm xứ ]

  • 1. Cơ sở tỉnh giác của thân thể [Thân]
  • 2. Cơ sở tỉnh giác của cảm nhận [Thọ]
  • 3. Cơ sở tỉnh giác của tâm thức [Tâm]
  • 4. Cơ sở tỉnh giác của sự vật [Pháp]

Khi tu Tứ niệm xứ được thuần thục, hành giả trở nên siêng năng tinh tấn so với những điều lành. Vì vậy bốn phẩm tiếp theo là bốn nỗ lực đúng mực [ tứ chánh cần ] :

  • 5. Việc ác đã sinh, nỗ lực làm cho mau dứt.
  • 6. Việc ác chưa sinh, nỗ lực ngăn không cho sinh ra
  • 7. Việc thiện đã sinh, nỗ lực làm cho tăng trưởng
  • 8. Việc thiện chưa sinh, nỗ lực làm cho mau sinh.
  • Tam Bảo, Tỳ Khưu Hộ Pháp, NXB 2019
  • Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Rate this post