Tự sự – Wikipedia tiếng Việt

Tự sự hay kể chuyện là bất kỳ sự tường thuật nào để kết nối các sự kiện, trình bày cho người đọc hoặc người nghe bằng một chuỗi câu viết hoặc nói, hoặc một chuỗi hình ảnh.[1]

Nếu tác phẩm trữ tình phản ánh hiện thực trong sự cảm nhận chủ quan về nó, thì tác phẩm tự sự lại tái hiện đời sống trong toàn bộ tính khách quan của nó. Tác phẩm tự sự phản ánh hiện thực qua bức tranh mở rộng của đời sống trong không gian, thời gian, qua các sự kiện, biến cố xảy ra trong cuộc đời con người.

Trong tác phẩm tự sự nhà văn cũng biểu lộ tư tưởng và tình cảm của mình. Nhưng ở đây, tư tưởng và tình cảm của nhà văn xâm nhập thâm thúy vào sự kiện và hành vi bên ngoài của con người tới mức giữa chúng có vẻ như không có sự phân biệt nào cả. Nhà văn kể lại, tả lại những gì xảy ra bên ngoài mình, khiến cho người đọc có cảm xúc rằng hiện thực được phản ánh trong tác phẩm tự sự là một quốc tế tạo hình xác lập đang tự tăng trưởng, sống sót bên ngoài nhà văn, không phụ thuộc vào vào tình cảm, ý muốn của nhà văn .

Phương thức phản ánh hiện thực qua các sự kiện, biến cố và hành vi con người làm cho tác phẩm tự sự trở thành một câu chuyện về ai đó hay về một cái gì đó. Cho nên tác phẩm tự sự bao giờ cũng có cốt truyện. Gắn liền với cốt truyện là một hệ thống nhân vật được khắc họa đầy đủ, nhiều mặt hơn hẳn nhân vật trữ tình và kịch.

Trong tác phẩm tự sự, diễn biến được khắc họa nhờ một mạng lưới hệ thống cụ thể nghệ thuật và thẩm mỹ nhiều mẫu mã, phong phú, gồm có chi tiết cụ thể sự kiện, xung đột, chi tiết cụ thể nội tâm, ngoại hình của nhân vật, cụ thể tính cách, cụ thể nội thất bên trong, ngoại cảnh, phong tục, đời sống, văn hóa truyền thống, lịch sử vẻ vang ; lại còn có cả những chi tiết cụ thể liên tưởng, tưởng tượng, hoang đường mà không nghệ thuật và thẩm mỹ nào tái hiện được .

Tự sự có thể được tổ chức trong một số chuyên đề và/hoặc thể loại loại hình và/hoặc phong cách: phi hư cấu (ví dụ: Tân Journalism, sáng tạo phi hư cấu, tiểu sử và chép sử); hư cấu hóa các tường thuật về sự kiện lịch sử (ví dụ: giai thoại, thần thoại và truyền thuyết); và trong hư cấu (ví dụ: văn học bằng văn xuôi, chẳng hạn như truyện ngắn và tiểu thuyết, và thỉnh thoảng trong thơ và kịch, mặc dù trong kịch các sự kiện chủ yếu được diễn thay vì kể). Tự sự được tìm thấy trong tất cả hình thức sáng tạo của con người và nghệ thuật, chẳng hạn như bài nói, bài viết, bài hát, phim, truyền hình, trò chơi, nhiếp ảnh, sân khấu, trò chơi nhập vai và nghệ thuật thị giác.

Tự sự cũng hoàn toàn có thể được tìm thấy trong quy trình kể chuyện truyền miệng, như ở nhiều hội đồng thổ dân châu Mỹ. Tự sự trong những câu truyện kể này được sử dụng để hướng dẫn con cháu về hành vi thích hợp, lịch sử dân tộc văn hóa truyền thống, hình thành một truyền thống hội đồng, và những giá trị. [ 2 ] Tự sự cũng hoạt động giải trí như những thực thể sống qua những câu truyện văn hóa truyền thống, khi chúng được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bởi vì tự sự thường kết thúc mà không có ý nghĩa rõ ràng, trẻ nhỏ như tham gia vào trong quy trình kể chuyện bởi như vậy sẽ càng đi sâu hơn vào câu truyện mở và giúp chúng tự tìm câu vấn đáp cho riêng mình. [ 3 ]

Tự sự có thể được sử dụng như một từ đồng nghĩa của “tường thuật”. Nó cũng có thể được sử dụng để dẫn dắt chuỗi các sự kiện được mô tả trong một câu chuyện. Tự sự cũng có thể được lồng vào trong những tự sự khác, chẳn hạn như một câu chuyện được kể bởi những người kể chuyện không đáng tin cậy thường được tìm thấy trong các thể loại hư cấu noir. Một phần quan trọng của tự sự là chế độ tường thuật, tập hợp các phương pháp được sử dụng để giao tiếp tự sự thông qua một quá trình tường thuật.

Cùng với thuyết minh, nghị luận và miêu tả, tự sự, theo nghĩa rộng, là một trong bốn chính sách tu từ của bài luận. Theo nghĩa hẹp hơn, nó là một lối viết trong tác phẩm hư cấu, theo đó người kể chuyện tiếp xúc trực tiếp với người đọc .

  1. ^ Oxford English Dictionary ( trực tuyến ) : Definition of ” narrative ”
  2. ^

    Hodge, et al. 2002. Utilizing Traditional Storytelling to Promote Wellness in American Indian Communities.

  3. ^ Owen Flanagan Consciousness Reconsidered 198
  • Kelley, Stephanie R, Rumors in Iraq: A Guide to Winning Hearts and Minds. Storming Media, 2004. ISBN 1-4235-2249-4
  • Asimov, Nanette. “Researchers help U.S. Military track, defuse rumors.”link hỏng] San Francisco Chronicle. ngày 14 tháng 10 năm 2011.
  • Hardin, Jayson. The Rumor Bomb: Theorizing the convergence of New and Old Trends in Mediated U.S. Politics, Southern Review: Communication, Politics & Culture 39, no. I (2006): 84–110

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Rate this post