Chữ Quốc ngữ – Wikipedia tiếng Việt

Chữ Quốc ngữ là tên gọi cho bộ chữ Latinh phổ thông được dùng để viết tiếng Việt hiện nay[3]. Chữ Quốc ngữ được tạo ra bởi các tu sĩ Dòng Tên Bồ Đào Nha, Ý và Pháp, bằng việc cải tiến bảng chữ cái Latinh và ghép âm dựa theo quy tắc chính tả của văn tự tiếng Bồ Đào Nha[1] và một chút tiếng Ý[4].

Muộn nhất là từ năm 1867 đã có người gọi chữ Latinh cho tiếng Việt là chữ quốc ngữ.[5] Trong năm này, Trương Vĩnh Ký xuất bản hai quyển sách về ngữ pháp. Quyển đầu là sách tiếng An Nam viết bằng chữ quốc ngữ về ngữ pháp tiếng Pha Lang Sa (tiếng Pháp) có tên gọi là Mẹo luật dạy học tiếng pha-lang-sa. Trong sách có tên gọi chữ quốc ngự (ngự chứ không phải là ngữ) được dùng để chỉ văn tự Latinh tiếng Việt. Quyển sách thứ hai là sách ngữ pháp tiếng An Nam viết bằng tiếng Pha Lang Sa, có tên gọi là Abrégé de grammaire annamite (Khái yếu ngữ pháp tiếng An Nam). Trong quyển sách tiếng Pha Lang Sa, chữ Latinh tiếng Việt được gọi bằng tiếng Pha Lang Sa là l’alphabet européen (bảng chữ cái châu Âu), les caractères latins (chữ Latinh). Trên Gia Định báo số phát hành ngày 15 tháng 4 cùng năm, khi đề cập tới quyển sách ngữ pháp tiếng An Nam viết bằng tiếng Pha Lang Sa của Trương Vĩnh Ký, tên gọi chữ quốc ngữ đã được sử dụng để chỉ chữ Latinh cho tiếng Việt.[6]

Chữ Quốc ngữ được hình thành bởi các tu sĩ Dòng Tên trong quá trình truyền đạo Công giáo tại Việt Nam đầu thế kỷ 17 dưới quy chế bảo trợ của Bồ Đào Nha.[2] Francisco de Pina là nhà truyền giáo đầu tiên thông thạo tiếng Việt, ông đã bắt đầu xây dựng phương pháp ghi âm tiếng Việt bằng chữ cái Latinh.[1] Giáo sĩ Alexandre de Rhodes là người có công hệ thống hóa và định chế hóa chữ quốc ngữ qua cuốn từ điển Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum in năm 1651 tại Roma.[7] Ông cho biết mình đã biên soạn cuốn từ điển này dựa trên hai từ điển (nay đã thất truyền) của Gaspar do Amaral và Antonio Barbosa. Các nhà truyền giáo khác đóng góp trong lịch sử sơ khởi của chữ Quốc ngữ có thể kể đến Francesco Buzomi,[8] Christoforo Borri, Girolamo Maiorica, và Antonio de Fontes.

Theo soạn giả Alexandre de Rhodes, ông mượn dấu sắc, huyền, ngã từ tiếng Cổ Hy Lạp mà vẫn không đủ nên phải thêm iota subscriptum (dấu nặng) và dấu hỏi để biểu lộ thanh giọng của tiếng Việt.[9] So sánh ký tự thì âm nh, ch theo tiếng Bồ Đào Nha; gi theo tiếng Ý; còn ph theo tiếng Cổ Hy Lạp. Dấu lưỡi câu ◌᷄ được dùng để thể hiện phụ âm cuối mũi hóa.

Các văn bản thời kỳ này là tài liệu ghi chép quan trọng về cách phát âm của tiếng Việt trung đại. Bên cạnh mục tiêu thực tiễn là để những nhà truyền giáo học tiếng Việt thuận lợi hơn, chữ Quốc ngữ còn giúp một vài giáo hữu Nước Ta trải qua mẫu tự Latinh làm quen với tiếng Latinh, ngôn từ hoàn vũ của Giáo hội Công giáo. [ 10 ]

Linh mục Giovanni Filippo de Marini chép lại biên bản hội nghị năm 1645 về mô thức rửa tội có ghi:[11] “Tau rữa mầï nhân danh Cha, uà Con, uà Spirito Santo. Taü lấÿ tên Chuá, tốt tên, tốt danh, tốt tiẽng…

Gia Định báo, tờ báo tiếng Việt đầu tiên dùng chữ Quốc ngữ, ra mắt năm, tờ báo tiếng Việt tiên phong dùng chữ Quốc ngữ, ra đời năm 1865Cuối thế kỷ 18 tại Đàng Trong diễn ra cuộc chỉnh lý khiến chữ Quốc ngữ phần nhiều giống với ngày này. [ 12 ] Các giáo hữu Đàng Trong đã biên soạn từ điển chữ Quốc ngữ, dưới sự điều phối của Giám mục Bá Đa Lộc Bỉ Nhu ( Pierre Pigneau de Behaine ). [ 13 ] Căn cứ vào bản thảo này, giáo sĩ Jean-Louis Taberd đã chỉnh sửa và biên tập và cho xuất bản năm 1838. [ 14 ]

Cuốn tự điển của Bá Đa Lộc được soạn quãng năm 1772–1773 có tên Dictionarium Anamatico-Latinum mới chỉ là bản viết tay (nay còn giữ ở Văn khố Hội Truyền giáo Paris) chứ chưa được in ra. Trong khi đó tự điển của Taberd mang tên Nam Việt–Dương Hiệp Tự vị (tựa Latinh giống với tựa cuốn của Bá Đa Lộc) được in ở Serampore, Ấn Độ.[15] Nó phản ảnh một biến chuyển quan trọng của tiếng Việt trong khoảng thế kỷ XVIII và XIX. So sánh tự điển của Taberd và De Rhodes thì âm “ꞗ” (ȸ) biến mất, thay thế bằng âm “v” hoặc “b”. Những âm “bl”, “ml”, “pl”, “sl”, và “tl” cũng biến mất, thay thế bằng “tr”, “nh”, “l”, “s”. Lưu ý một số cách viết chính tả cũ vẫn còn gặp ở các văn bản của João de Loureiro đương thời tại Đàng Trong[16] và của Philipphê Bỉnh tại Lisboa vào đầu thế kỷ 19.

Cuốn tự điển có phần phụ lục tựa là “Lời Chúa Tàu và Người Annam vấn đáp cùng nhau” (Dialogus Inter Unum Navis Praevectum et Unum Cocincinensem), trong đó có đoạn như sau:[17]

    – Ông đi viếng Quan lớn thì được song thói nước nầy chẳng cho phép thăm đờn bà.

    – Tôi cam lòng chìu theo quốc pháp, tôi chẳng có ý làm đều gì nghịch cùng thói phép đất nầy, có tục ngữ rằng: nhập giang tùy khúc nhập gia tùy tục.

Như vậy, dạng chính tả của chữ Quốc ngữ ở lần chỉnh lý này với cách viết không khác mấy thời nay là bước chuẩn hóa chính sau cuối, những giải pháp sửa đổi chính tả sau này đều không phổ cập được. Trong hơn 200 năm, Công giáo tại Nước Ta tuy lưu hành chữ Quốc ngữ nhưng vẫn sử dụng chữ Nôm là hầu hết. [ 18 ]

Mục lục nội dung

Địa vị chính thức[sửa|sửa mã nguồn]

Do sự thống trị của Hán học ở Nước Ta, chữ Quốc ngữ trên chặng đường hơn 300 năm hình thành và tăng trưởng nhưng chưa đủ thông dụng để coi là văn tự chính thức. Chữ Nôm và chữ Hán vẫn là dạng văn tự chính của tiếng Việt trong mấy trăm năm qua, đang được mọi người trong xã hội sử dụng phổ cập nên không có nguyên do gì phải bị sửa chữa thay thế. Phải cho tới khi người Pháp xâm lăng, chiếm Nam Kỳ vào cuối thế kỷ XIX, thì tên gọi và vị trí ” chữ Quốc ngữ ” của chữ Latinh cho tiếng Việt mới được xác lập, lúc đó chữ Quốc ngữ mới được bảo lãnh để thông dụng, nhằm mục đích khiến tiếng Việt đồng văn tự Latinh với tiếng Pháp, giúp phổ cập tiếng Pháp và văn hoá Pháp ở Nước Ta. Ngày 22 tháng 2 năm 1869 Phó Đề đốc Marie Gustave Hector Ohier ký nghị định ” bắt buộc dùng chữ Quốc ngữ thay thế sửa chữa chữ Hán ” trong những công văn ở Nam Kỳ. [ 19 ]Nghị định 82 ký ngày 6 tháng 4 năm 1878 do Thống đốc Nam Kỳ Lafont ký cũng đề ra mốc hẹn trong bốn năm ( tức năm 1882 ) thì phải chuyển hẳn sang chữ Quốc ngữ : [ 20 ]

Kể từ mồng một Tháng Giêng năm 1882 tất cả văn kiện chánh thức, nghị định, quyết định, lịnh, án tòa, chỉ thị… sẽ viết, ký tên và công bố bằng chữ quốc ngữ; nhân viên nào không thể viết thơ từ bằng chữ quốc ngữ sẽ không được bổ nhậm và thăng thưởng trong ngạch phủ, huyện và tổng…

Ngày 1 Tháng Giêng năm 1879 thì lại có lệnh khẳng định chắc chắn những văn kiện chính thức phải dùng chữ Quốc ngữ. Cũng năm đó chính quyền sở tại Pháp đưa chữ Quốc ngữ vào ngành giáo dục, khởi đầu ở những thôn xã Nam Kỳ phải dạy lối chữ này. [ 19 ] Để khuyến khích việc truyền bá chữ Quốc ngữ, nhà chức trách thuộc địa Nam Kỳ còn ra nghị định ngày 14 Tháng 6 năm 1880 giảm hoặc miễn thuế thân và miễn sưu dịch cho thân hào hương lý nếu họ biết viết chữ Quốc ngữ. [ 20 ]Gia Định Báo, một tờ báo do Trương Vĩnh Ký làm chủ biên phát hành, là tờ báo tiên phong viết bằng chữ Quốc ngữ ra đời năm 1865 ; so với thời nay thì câu văn đã thêm phần mạch lạc, chính tả không mấy độc lạ. Ví dụ như bản thông tin ngày 22 tháng 12 năm 1888 sau đây : [ 21 ]

Sở Thuế Chánh Ngạch. Các người thiếu thuế… đặng hay: các sổ phụ trong tháng Octobre 1888 thuế đất, thuế sanh ý, thuế ghe biển, thuế ghe sông, cùng thuế thân đã lập theo phép để trong tay quan Kho Bạc Sài Gòn và Chợ Lớn hay về việc thâu thuế. Bởi đó sức cho các người ấy phải y theo hạn trong luật dạy mà đóng các món thuế biên trong sổ ấy, bằng không thì phải cứ phép mà bắt buộc…

Nửa đầu thế kỷ XX[sửa|sửa mã nguồn]

Sang thế kỷ XX thì cơ quan chính phủ Đông Pháp lan rộng ra chủ trương dùng chữ Quốc ngữ, giao cho Nha Học chính giảng dạy ở Bắc Kỳ từ năm 1910. [ 22 ] Thượng thư bộ Học là Cao Xuân Dục có công văn vấn đáp Toàn quyền Đông Dương với ý tán đồng : [ 23 ]

… cả nước cùng học chữ Quốc ngữ Latinh, tuyển chọn các vị cử nhân, tú tài, tôn sinh, ấm sinh người bản quốc sung làm giáo sư và thành lập viện dịch chữ Quốc ngữ… Nay vâng mệnh Hoàng đế bản quốc lập ra trường chuyên dạy thứ chữ này chính là muốn thống nhất một lối dùng làm thứ chữ dạy học phổ thông.

Năm 1915 thì kỳ thi Hương ở đầu cuối diễn ra ở Bắc Kỳ mặc cho sự chống đối của giới sĩ phu. Ở Trung Kỳ thì đạo dụ của vua Khải Định ngày 26 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ ( tức ngày 28 tháng 12 năm 1918 ) chính thức bãi bỏ khoa cử và năm 1919 là năm cuối mở khoa thi ở Huế. [ 24 ] Chữ Quốc ngữ từ đó trở thành văn tự diễn đạt phổ cập ở Nước Ta, trong khi đó người Việt đang dần ” mù chữ ” với Chữ Hán và chữ Nôm, hai dạng văn tự này trở nên ít được sử dụng .

Trong khi đó cũng có thành phần theo Nho học nhưng hiểu được ưu điểm dễ viết dễ đọc của chữ Quốc ngữ và cổ động việc thâu nhận chữ Quốc ngữ như là một cách nâng cao trình độ kiến thức đại chúng, canh tân xã hội, thức tỉnh tinh thần yêu nước và huy động động lực phản kháng của người Việt trước quyền lực của thực dân Pháp. Trong đó có nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục. Việc theo học chữ Quốc ngữ theo đó thì không chỉ là phương tiện đọc và viết mà còn hàm ý vận động chính trị và vận mệnh dân tộc.[cần dẫn nguồn]

Chữ Quốc ngữ qua những tác phẩm biên khảo, phóng sự, bình luận, du ký của những Nam Phong Tạp chí, Đông Dương Tạp chí, cùng một loạt tiểu thuyết và thơ mới của nhóm Tự lực Văn đoàn với tư tưởng mới, phong cách mới cũng và nhiều tác giả khác giúp ưu điểm dễ viết dễ đọc của chữ Quốc ngữ được thể hiện.

Từ giữa thế kỷ XX[sửa|sửa mã nguồn]

Nửa cuối thế kỷ XX diễn ra những chỉnh sửa chữ Quốc ngữ, trong đó có sửa đổi chữ viết tương quan đến những cuộc cải cách giáo dục của nước CHXHCN Nước Ta thực thi. Do lúc này có hơn 4 triệu người Việt ở quốc tế, cùng với những hay dở của cải cách giáo dục trong nước, dẫn đến ý niệm và sử dụng chữ Quốc ngữ có sự khác nhau nhất định, tùy theo từng người được thụ hưởng nền giáo dục nào .

  1. Từ những năm 1950 tại miền Bắc, chữ Quốc ngữ được giản lược bằng cách bỏ dấu gạch nối giữa từ ghép và tên riêng, ví dụ: tự-do thành tự do, Họ-Văn-Tên thành Họ Văn Tên.[25] Tuy nhiên điều đặc biệt là năm 1973 khi xây dựng lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hà Nội, thì lại có yêu cầu có dùng gạch nối trong dòng tên ở mặt chính là Hồ-Chí-Minh.
  2. Những người không thụ hưởng cải cách giáo dục, gồm những người ở nước ngoài hoặc đã học phổ thông trước cải cách giáo dục.
  3. Thế hệ thụ hưởng cải cách giáo dục với tên chữ “a bờ cờ” (đọc thêm âm).
  4. Thế hệ thụ hưởng cải cách giáo dục thứ hai với tên chữ “a bê xê” (đọc theo tên tiếng Pháp).

Bảng vần âm[sửa|sửa mã nguồn]

Bảng vần âm hiện tại[sửa|sửa mã nguồn]

Bảng vần âm Latinh cho tiếng Việt hiện tại có 29 vần âm : [ 26 ] [ 27 ]

Chữ hoa A Ă Â B C D Đ E Ê G H I K L M N O Ô Ơ P Q R S T U Ư V X Y
Chữ thường a ă â b c d đ e ê g h i k l m n o ô ơ p q r s t u ư v x y

So với bảng vần âm tiếng Anh, bảng vần âm tiếng Việt giống 22 vần âm. Có 7 vần âm biến thể bằng cách thêm dấu là Ă-Â-Đ-Ê-Ô-Ơ-Ư. 4 vần âm trong bảng vần âm tiếng Anh chưa có trong bảng vần âm tiếng Việt là F-J-W-Z .Mỗi chữ cái đều có hai hình thức viết lớn và nhỏ. Kiểu chữ lớn gọi là ” chữ hoa ” ( chữ in hoa, chữ viết hoa ). Kiểu chữ nhỏ gọi là ” chữ thường ” ( chữ in thường, chữ viết thường ) .Chữ quốc ngữ có 11 chữ ghép biểu lộ phụ âm gồm :

  • 10 chữ ghép đôi: ch, gh, gi, kh, ng, nh, ph, qu, th, tr
  • 1 chữ ghép ba: ngh

Chữ ghép là tổng hợp gồm từ hai vần âm trở lên được dùng để ghi lại một âm vị hoặc một chuỗi những âm vị có cách phát âm không giống với âm vị mà những vần âm trong tổng hợp vần âm đó biểu lộ. Chữ ghép đôi là chữ ghép có hai vần âm, chữ ghép ba là chữ ghép có ba vần âm .

Bảng chữ cái tiếng Việt trong Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La-tinh

[sửa|sửa mã nguồn]

Bảng chữ cái La-tinh tiếng Việt trong Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La-tinh in năm 1651 của Đắc Lộ (dưới đây gọi tắt là Từ điển) có 23 chữ cái là:[28]

Chữ hoa A B C D đ E G H I K L M N O P Q R S T V X Y
Chữ thường a b c d e g h i k l m n o p q r ſ/s t v/u x y

Bảng chữ cái tiếng Việt trong Từ điển có ít chữ cái hơn bảng chữ cái tiếng Việt đương đại. Các ký hiệu ă, â, ê, ô, ơ, ư, được xem là chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Việt đương đại, đều đã có trong Từ điển nhưng tác giả của Từ điển không xem chúng là chữ cái độc lập. Trong Từ điển, mọi ký hiệu được cấu thành từ một tự mẫu nguyên âm và một hoặc hai dấu phụ, thí dụ như à, , ă, , , đều không được xem là một tự mẫu riêng biệt khác với tự mẫu nguyên âm xuất hiện trong ký hiệu đó,à, , ă, , đều chỉ được xem là tự mẫu a mang dấu phụ chứ không được xem là những tự mẫu khác với tự mẫu a.

Trong bảng chữ cái tiếng Việt trong Từ điển có một chữ cái nay không còn được sử dụng để ghi chép tiếng Việt và không có trong bảng chữ cái tiếng Việt hiện hành là chữ b đuôi quặp . Chữ này được dùng để ghi âm sát đôi môi hữu thanh /β/.[29]

Hai tự mẫu đ trong Từ điển không có hình thức chữ hoa và chữ thường.[30] đ không phải là chữ thường mà cũng chẳng phải là chữ hoa của hai chữ. Nếu chỉ viết hoa địa danh bằng chữ hoa có trong Từ điển thì tên gọi của hai tỉnh Đồng Nai và Lâm Đồng ở Việt Nam sẽ phải viết là đồng NaiLâm đồng. Hiện nay, tự mẫu đ đã có hình thức chữ hoa và chữ thường, đ được xem là hình thức chữ thường của tự mẫu đ, còn hình thức chữ hoa của tự mẫu này là Đ.

Chữ s thường trong Từ điển có hai kiểu là chữ s dài ſ và chữ s ngắn s.[31][32] Trong chữ quốc ngữ đương đại, chữ s dài ſ không còn được dùng nữa, chữ s ngắn s là hình thức chữ thường duy nhất của chữ s.

Chữ v thường trong Từ điển có hai kiểu là chữ v đáy nhọn v và chữ v đáy cong u.[33][34] Vào thế kỷ 17, vu chưa được xem là hai chữ cái riêng biệt, u chỉ được xem là biến thể của chữ v.[35]

Thêm hay không thêm bốn tự mẫu f, j, w, z vào bảng chữ cái tiếng Việt?

[sửa|sửa mã nguồn]

Bốn chữ cái F, J, W, Z vốn có trong bảng chữ cái tiếng Pháp, tiếng Anh hiện không được coi là chính thức trong tiếng Việt cũng như trong quy ước chung về tiếng phổ thông.

Tuy nhiên trong văn bản hành chính chính thức thì các chữ cái này vẫn được sử dụng để viết các tên riêng theo tiếng của các dân tộc khác nhau. Ví dụ như tên các xã Zuôih, Jơ Ngây, Za Hung,… ở huyện Nam Giang, Quảng Nam, xã Ea Wy huyện Ea H’leo, xã Cư Ê Wi huyện Cư Kuin,… ở tỉnh Đăk Lăk, huyện Cư Jút ở tỉnh Đăk Nông. Ngoài ra là cách ghép vần “phi Việt ngữ” như uôih, uôp, h’l, k’t, kr,… cũng tùy nghi được sử dụng.

Hay như chính Chủ tịch Hồ Chí Minh khi tự tay viết di chúc đã sử dụng chữ F thay chữ PH, chữ Z thay chữ D.[36]

Điều này thể hiện sự thiếu chặt chẽ về pháp lý, nhưng tại Việt Nam vẫn được mặc nhiên thừa nhận. Đã có ý kiến cho rằng “F, J, W, Z không thể nằm ngoài bảng chữ cái” [37]. Nó cần thiết trong việc xây dựng tiếng phổ thông bao quát được các thành tố cơ bản trong ngôn ngữ của đất nước, đảm bảo chặt chẽ trong các văn bản pháp lý, cũng như cần đưa vào giảng dạy để học sinh đọc đúng tên quê mình. Tuy nhiên sự việc không thuộc nhóm cấp thiết và không gây chết người nên chưa có cấp nào quan tâm chỉ đạo và giải quyết. Cá biệt có học giả hàn lâm thì cho rằng tiếng Việt có chữ viết là đầy đủ rồi.[38]

Tên gọi những vần âm[sửa|sửa mã nguồn]

Tất cả tên gọi các chữ cái trong tiếng Việt đều được bắt nguồn từ tiếng Pháp. Chúng thường được dùng để đánh vần hoặc gọi tên viết tắt như VTV (vê-tê-vê), VOV (vê-ô-vê),…

STT Chữ cái Tên chữ STT Chữ cái Tên chữ
1 A a 16 N en-nờ
2 Ă á 17 O o
3 Â 18 Ô ô
4 B 19 Ơ ơ
5 C 20 P
6 D 21 Q quy
7 Đ đê 22 R e-rờ
8 E e 23 S ét-sì
9 Ê ê 24 T
10 G giê 25 U u
11 H hát 26 Ư ư
12 I i (ngắn) 27 V
13 K ca 28 X ích-xì
14 L e-lờ 29 Y y (dài)
15 M em-mờ

Tên gọi của hai cặp vần âm nguyên âm ” a “, ” ă ” và ” ơ “, ” â ” chỉ khác về thanh điệu. Chúng biểu lộ những biến thể dài ngắn của cùng một nguyên âm, với ” a “, ” ă ‘ là nguyên âm / a /, với ” ơ ” và ” â ” là nguyên âm / ə /. Vì trong tiếng Việt khi / a / và / ə / là âm tiết thì không có sự phân biệt về độ dài của nguyên âm nên tên gọi của hai cặp vần âm ” a “, ” ă ” và ” ơ “, ” â ” phải mang thanh điệu khác nhau để tránh cho chúng trở thành đồng âm .Bốn vần âm F, J, W và Z hiện tại được coi là không có trong bảng vần âm quốc ngữ, nhưng trong đời sống hoàn toàn có thể phát hiện chúng trong những từ ngữ có nguồn gốc từ những ngôn từ khác. Trong tiếng Việt bốn vần âm này có tên gọi như sau :

  • F-f: ép/ép-phờ. Bắt nguồn từ tên gọi của chữ cái này trong tiếng Pháp là “effe” /ɛf/. Chữ này thường mang âm tương ứng với cặp chữ PH trong tiếng Việt.
  • J-j: gi. Bắt nguồn từ tên gọi của chữ cái này trong tiếng Pháp là “ji” /ʒi/. Chữ này thường mang âm tương ứng với cặp chữ GI trong tiếng Việt.
  • W-w: vê kép, vê đúp (cũ), đáp-lưu. Bắt nguồn từ tên gọi của chữ cái này trong tiếng Pháp là “double vé” /dubləve/. Chữ này thường mang âm tương ứng với chữ O và U nếu sau 2 chữ này là nguyên âm trong tiếng Việt.
  • Z-z: dét. Bắt nguồn từ tên gọi của chữ cái này trong tiếng Pháp là “zède” /zɛd/. Chữ này thường mang âm tương ứng với chữ D trong tiếng Việt.

Hiện đang có quan điểm cho rằng, cần bổ trợ thêm bốn vần âm F, J, W và Z vào bảng vần âm quốc ngữ để hợp thức hóa cách sử dụng để phân phối sự tăng trưởng của tiếng Việt văn minh ( như F thay PH, J thay GI để giảm ký tự, tránh nhầm sang âm ” ghi “, Z thay D để tránh nhầm sang âm ” đờ ” của Đ ). [ 39 ] Mặc dù không có những vần âm F, J, W và Z trong bảng vần âm, người Việt khi gặp những vần âm này trong những từ họ thường phiên âm từ ra để đọc đúng chuẩn hoặc họ đọc theo kiểu tiếng Anh .

Chữ viết tay[sửa|sửa mã nguồn]

Bảng chữ viết tay tiếng ViệtThể chữ viết tay của vần âm Latinh gồm hai loại loại lớn là thể chữ in và thể chữ thảo, mỗi thể chữ này lại gồm có nhiều thể chữ khác nhau. Trong thể chữ in tự hình của những vần âm gần giống như những chữ được in trên sách báo, những vần âm được viết tách rời, không nối với nhau. Trong thể chữ thảo những vần âm được thông suốt với nhau. Thể chữ in dễ đọc nhưng viết chậm, thể chữ thảo viết nhanh hơn nhưng khó đọc hơn. Các trường học ở Nước Ta không dạy thể chữ in, chỉ dạy thể chữ thảo. Trong thực tiễn, không như những gì được dạy ở nhà trường, hầu hết người Nước Ta viết một thứ chữ trộn lẫn gồm cả chữ thảo lẫn chữ in. Các chữ hoa thường được viết theo thể chữ in vì chúng dễ viết hơn .Thể chữ thảo được dạy trong những trường học ở Nước Ta là thể chữ tròn Anh quốc. Thể chữ tròn Anh quốc sinh ra ở Anh cuối thế kỷ XVII, trên cơ sở cải biến thể chữ tròn Pháp quốc ( còn gọi là thể ” chữ rông ” [ ” rông ” là phiên âm từ Pháp ” ronde ” có nghĩa là tròn, hình tròn trụ ] ). Như tên gọi của nó thể chữ tròn Pháp quốc do người Pháp tạo ra. Đến thế kỷ thứ XVIII thể chữ tròn Anh quốc được truyền bá và sử dụng thoáng đãng khắp châu Âu, trong đó có nước Pháp, nơi cung ứng vật liệu để tạo nên thể chữ tròn Anh quốc .
Chính tả chữ Quốc ngữ là một pháp luật xã hội thống nhất cần tuân theo. Ý thức viết đúng chính tả là ý thức văn hóa truyền thống. Những quy tắc chính tả dưới đây đã được tìm hiểu thêm rất nhiều qua những luận bàn về chính tả tiếng Việt, thậm chí còn đã quay ngược lại lịch sử vẻ vang từ năm 1902 khi Hội nghị Khảo cứu Viễn Đông được tổ chức triển khai tại đây, yếu tố về chữ Quốc ngữ đã được Ủy ban Cải cách chữ Quốc ngữ ý kiến đề nghị lên chính phủ nước nhà Toàn quyền lúc bấy giờ. Từ đó tới nay, đã có rất nhiều bàn luận được tổ chức triển khai nên đã giúp quy tắc chính tả tiếng Việt dần được điển chế hoá tới một mức độ khả quan hơn. Song song đó, sự tăng trưởng của khoa học công nghệ tiên tiến, đặc biệt quan trọng là sự chuẩn hoá của mã chữ Unicode đã mang tính quyết định hành động trong việc hệ thống hoá những quy tắc về chính tả tiếng Việt .

Hiện nay phần lớn các văn bản trong nước được viết chủ yếu là theo những “Quy định về chính tả tiếng Việt và về thuật ngữ tiếng Việt” áp dụng cho các sách giáo khoa, báo và văn bản của ngành giáo dục nêu tại Quyết định của Bộ Giáo dục số 240/QĐ ngày 5 tháng 3 năm 1984 [40] do những người thụ hưởng giáo dục đó sau này ra làm việc trong mọi lĩnh vực xã hội.

Quan hệ đối ứng giữa chính tả chữ quốc ngữ và ngữ âm tiếng Việt[sửa|sửa mã nguồn]

Chữ cái phụ âm đứng đầu từ chính tả và âm đối ứng[sửa|sửa mã nguồn]

Phụ âm đầu trong chữ quốc ngữ là các chữ cái phụ âm và chữ ghép đứng đầu từ. Ví dụ: xem có phụ âm đầu là x, phim có phụ âm đầu là ph. Chữ quốc ngữ có 17 chữ cái phụ âm (b, c, d, đ, g, h, k, l, m, n, p, q, r, s, t, v, x) và 11 chữ ghép (ch, gh, gi, kh, ng, ngh, nh, ph, qu, th, tr). Tất cả các chữ cái phụ âm và chữ ghép trong chữ quốc ngữ đều có thể làm phụ âm đầu.[41]

Vần chính tả chữ quốc ngữ[sửa|sửa mã nguồn]

Tiếng Việt hiện đại có khoảng 200 vần, tiếng là một âm thanh được ghi lại gọi là chữ gồm năm yếu tố: Phụ âm đầu, Âm đệm, Âm chính, Âm cuối, và thanh điệu. Vần hay còn gọi âm vận nên không có phụ âm đầu và có thể vắng mặt nhiều yếu tố trên, nhưng âm chính và thanh điệu luôn luôn phải có. Vần được chia ra như sau:[cần dẫn nguồn]

  • Vần đơn: Chỉ có một nguyên âm và thanh điệu (a,e,o,u,..)
  • Vần ghép: Do nhiều nguyên âm hợp lại và thanh điệu mà thành (ai, ay, oai,…).Vần ghép có thể là nguyên âm đôi hoặc nguyên âm ba.
  • Vần trơn: Có nguyên âm ở cuối và thanh điệu (ai, êu, oai, ươi,…).
  • Vần cản: Có phụ âm theo sau và thanh điệu (ac, ach, am, an, ang, anh, ap, at,…).

+ A

a, ac, ach, ai, am, an, ang, anh, ao, ap, at, au, ay.

Phụ âm đầu : / ʔ /, b, c, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, qu, r, s, t, th, tr, v, x .

Lưu ý: âm đầu /ʔ/ không được thể hiện trên chính tả.

+ Ă

ăc, ăm, ăn, ăng, ăp, ăt.

Phụ âm đầu : / ʔ /, b, c, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, qu, r, s, t, th, tr, v, x .

+ Â

âc, âm, ân, âng, âp, ât, âu, ây.

Phụ âm đầu : / ʔ /, b, c, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, qu, r, s, t, th, tr, v, x .

+ E

e, ec, em, en, eng, eo, ep, et.

Phụ âm đầu : / ʔ /, b, ch, d, đ, gh, gi, h, k, kh, l, m, n, ngh, nh, ph, qu, r, s, t, th, tr, v, x .

+ Ê

ê, êch, ênh, êm, ên, êp, êt, êu.

Phụ âm đầu: /ʔ/, b, ch, d, đ, gh, gi, h, k, kh, l, m, n, ngh, nh, ph, qu, r, s, t, th, tr, v, x.

Lưu ý: gi chỉ thực sự đứng trước 3 vần: ê, ênh, êch. Khi ghép với các vần còn lại nó gây ra tranh cãi về cách đọc (chẳng hạn giền có thể hiểu là gi+iền hoặc gi+ền nhưng cũng có thể lưu ý là chữ gen đọc là (gi+en) lược mất đi chữ i nên gên có thể đọc là (gi+ên))

+ I

Gồm những vần :

1. i, ich, im, in, inh, ip, it, iu.

2. ia, iêc, iêm, iên, iêng, iêp, iêt, iêu.

Phụ âm đầu : / ʔ /, b, ch, d, đ, gh, gi, h, k, kh, l, m, n, ngh, nh, ph, qu, r, s, t, th, tr, v, x .

Lưu ý:

  • Khi gi ghép với các vần bắt đầu với i thì một chữ i bị giản lược, trừ trường hợp gi+ia=gia.
  • Khi qu ghép với i thì chuyển i thành y, ví dụ: qu+i=quy, qu+iên=quyên. qu không ghép với vần ia

+ O

– Gồm những vần :

1. o, oc, oi, om, on, ong, op, ot, oong, ooc.

Phụ âm đầu: /ʔ/, b, c, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, qu, r, s, t, th, tr, v, x.

Lưu ý: Âm đệm không đứng trước nguyên âm o, trừ ngoại lệ: “quọ“.

2. oa, oac, oach, oai, oam, oan, oang, oanh, oao, oap, oat, oay,

oăc, oăm, oăn, oăng, oăt,

oe, oen, oeo, oet; oem, oeng (hiếm gặp).

Phụ âm đầu : / ʔ /, b, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, r, s, t, th, tr, v, x .

+ Ô

ô, ôc, ôi, ôm, ôn, ông, ôp, ôt.

Phụ âm đầu : / ʔ /, b, c, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, r, s, t, th, tr, v, x .

+ Ơ

ơ, ơi, ơm, ơn, ơp, ơt.

Phụ âm đầu : / ʔ /, b, c, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, qu, r, s, t, th, tr, v, x .

+ U

– Gồm những vần :

1. u, uc, ui, um, un, ung, up, ut.

Phụ âm đầu : / ʔ /, b, c, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, r, s, t, th, tr, v, x .

2. ua, uôc, uôi, uôm, uôn, uông, uôt.

Phụ âm đầu: /ʔ/, b, c, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, q, r, s, t, th, tr, v, x.

Lưu ý: Âm /k/ khi đứng trước nguyên âm đôi ua/uô được ghi lại bằng c, ngoại lệ duy nhất là “quốc” được ghi lại bằng q để khu biệt ý nghĩa: q+uốc = quốc

3. uây, uân, uâng, uât

uơ.

uê, uênh, uêch.

uy, uych, uynh, uyt, uyu; uyn, uyp. (chỉ gặp trong từ mượn).

uya, uyên, uyêt.

Phụ âm đầu : / ʔ /, b, c, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, r, s, t, th, tr, v, x .

+ Ư

– Gồm những vần :

1. ư, ưc, ưi, ưu, ưng, ưt, ưm (hiếm gặp trong ừm, hừm).

2. ưa, ươc, ươi, ươm, ươn, ương, ươp, ươt, ươu.

Phụ âm đầu : / ʔ /, b, c, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, r, s, t, th, tr, v, x .

+ Y

– Gồm những vần :

1. y.

Phụ âm đầu: /ʔ/, h, k, l, m, qu, t, n, s, th, v (hiếm gặp – chỉ xuất hiện trong tên riêng như: ny, sỹ, thy, vy, vỹ).

2. yêm, yên, yêng, yêt, yêu.

Phụ âm đầu : / ʔ / .Danh sách trên chỉ gồm những vần xuất hiện trong tiếng Việt toàn dân, 1 số ít vần cổ như : ơng ( cơng cơng ), uyêc ( tuyếc-bin ), ơu ( nớu ), … hay chỉ Open tại một vùng phương ngữ nào đó như : ôông, ôôc, ưn, êng, … không được liệt kê .

Chữ cái nguyên âm trong vần chính tả và âm đối ứng[sửa|sửa mã nguồn]

Có 11 ký tự nguyên âm đơn A, Ă, Â, E, Ê, I / Y, O, Ô, Ơ, U, Ư .Ngoài những nguyên âm đơn, trong tiếng Việt còn có : 26 nguyên âm đôi, còn gọi là trùng nhị âm ( AI, AO, AU, ÂU, AY, ÂY, EO, ÊU, IA / IÊ ( còn viết là : YA / YÊ ), IU, OA, OĂ, OE, OI, ÔI, ƠI, OO, ÔÔ, UA / UÔ, UÂ, ƯA / ƯƠ, UÊ, UI, ƯI, UƠ, ƯU, UY ) và 12 nguyên âm ba hay trùng tam âm ( IÊU / YÊU, OAI, OAO, OAY, OEO, UAO, UÂY, UÔI, ƯƠI, ƯƠU, UYA / UYÊ, UYU ) .Có những nguyên âm : Ă, Â, IÊ / YÊ, OĂ, OO, ÔÔ, UÂ, UÔ, ƯƠ, UYÊ bắt buộc phải thêm phần âm cuối được chia theo quy tắc trái chiều bổ trợ như sau :

  • Bắt buộc thêm nguyên âm cuối, hoặc phụ âm cuối: Â, IÊ/YÊ, UÂ, UÔ, ƯƠ.
  • Bắt buộc thêm phụ âm cuối: Ă, OĂ, OO, ÔÔ, UĂ, UYÊ.

Có 4 nguyên âm ghép hoàn toàn có thể đứng tự do một mình hoặc thêm âm đầu, cuối, hoặc cả đầu lẫn cuối : OA, OE, UÊ, UY .Như vậy ta chỉ có 29 nguyên âm ghép không thêm được phần âm cuối là : AI, AO, AU, ÂU, AY, ÂY, EO, ÊU, IA ( Dạng biến thể của IÊ ), IÊU / YÊU, IU, OI, ÔI, ƠI, OAI, OAO, OAY, OEO, UA ( Dạng biến thể của UÔ ), UI, ƯA ( Dạng biến thể của ƯƠ ), ƯI, ƯU, UÂY, UÔI, ƯƠI, ƯƠU, UYA ( Dạng biến thể của UYÊ ) và UYU. Trong phát âm và viết thành chữ Quốc ngữ thì việc lên xuống, lê dài âm từ để bộc lộ từ tượng thanh, tượng hình và lớn, nhỏ … luôn là việc thiết yếu .Có mối liên hệ phức tạp giữa nguyên âm và cách phát âm của chúng. Một nguyên âm hoàn toàn có thể biểu lộ cho vài cách phát âm khác nhau, tùy theo nó nằm trong nguyên âm đơn, đôi hay ba, và nhiều khi những cách viết nguyên âm khác nhau tượng trưng cho cùng một cách phát âm .Bảng sau cho biết những cách phát âm hoàn toàn có thể tương ứng với từng cách viết nguyên âm :

Cách viết Phát âm Cách viết Phát âm
a / ɐː /, / ɐ /, / a : / o / ɔ /, / ɐw /, / w /,/ʷ/
ă / ɐ /, / ʌ /, / a / ô / o /, / ɜw /, / ou /
â / ə / ơ / əː /
e / ɛ /, / æ / u / u /, / w /,/ʷ/
ê / e /, / ei / ư / ɨ /, [ ɯ ]
i / i /, / j / y / i /, / j /, / i : /

Hiện nay những nhà ngôn ngữ học chưa có sự thống nhất trọn vẹn về số lượng nguyên âm trong tiếng Việt [ 59 ]. Tuy nhiên, quan điểm phổ cập cho rằng tiếng Việt có 13 nguyên âm đơn, 3 nguyên âm đôi và không có nguyên âm ba [ 60 ], gồm : / i, e, ε, ɤ, ɤˇ, a, ɯ, ă, u, o, ɔ, ɔˇ, εˇ, ie, ɯɤ, uo / .Bảng sau cho biết những cách viết hoàn toàn có thể tương ứng với từng cách phát âm nguyên âm đơn :

Nguyên âm đơn
/ i /

  • i (ngắn) i: / si / = cây si, tính.
    1. phân biệt với y khi tả âm, tượng hình như: hi hi thay vì hy hy. ti hí, hủ hỉ.
  • y (dài) y: / mi / = Mỹ (là từ Hán-Việt), kỹ thuật.
  • sẽ là y nếu
    1. bắt đầu một từ: / iɜw / = yêu. (không áp dụng cho nguyên âm đôi, nguyên âm ba)
    2. dùng cho danh từ có phụ âm đơn đứng trước,
    3. đứng riêng độc lập về âm không kèm phụ âm: y tế
  • (Chú ý là cả iy đều cũng có thể dùng biểu thị cho / j /.)
/ e /, / ei /

  • ê
/ ɛ /, / æ /

  • e
/ ɨ /, / ɯ /

  • ư
/ əː /

  • ơ
/ ɜ /

  • / ɜ /
/ ɐː /, / a : /

  • a
/ ɐ /

/ u /

  • u
/ o /, / ou /

  • ô
/ ɔ /

  • o

Bảng sau cho biết những cách viết hoàn toàn có thể tương ứng với từng cách phát âm nguyên âm đôi và ba :

Nguyên âm đôi & ba
Phát âm Cách viết Phát âm Cách viết
Nguyên âm đôi
/ uj / ui * / iw / iu **
/ oj / ôi * / ew / êu **
/ ɔj / oi * / ɛw / eo ***
/ əːj / ơi * / əːw / ơu **
/ ɜj / ây, ê * / ɜw / âu, ô **
/ ɐːj / ai * / ɐːw / ao ***
/ ɐj / ay, a * / ɐw / au, o **
/ ɨj / ưi * / ɨw / ưu **
/ iɜ / ia, ya, iê, yê / uɜ / ua, uô
/ ɨɜ / ưa, ươ /o:/ oo
Nguyên âm ba
/ iɜw / iêu, yêu **

/uɜj/

uôi *
/ ɨɜj / ươi * / ɨɜw / ươu **
* Nhiều khi không được công nhận là nguyên âm mà là vần, gồm nguyên âm chính và âm cuối (bán nguyên âm) i.
** Nhiều khi không được công nhận là nguyên âm mà là vần, gồm nguyên âm chính và âm cuối (bán nguyên âm) u.
*** Nhiều khi không được công nhận là nguyên âm mà là vần, gồm nguyên âm chính và âm cuối (bán nguyên âm) o.
/ iɜ /

  • ia nếu không có phụ âm nằm sau /miɜ/ = mía
  • nếu có phụ âm nằm sau /miɜŋ/ = miếng
  • thay i bằng y tại đầu từ hoặc sau một chữ cái nguyên âm:
    • ya: /xwiɜ/ = khuya
    • : /xwiɜn/ = khuyên; /iɜn/ = yên
/ uɜ /

  • ua nếu không có phụ âm nằm sau /muɜ/ = mua
  • nếu có phụ âm nằm sau /muɜn/ = muôn
/ ɨɜ /

  • ưa nếu không có phụ âm nằm sau /mɨɜ/ = mưa
  • ươ nếu có phụ âm nằm sau /mɨɜŋ/ = mương
Chữ cái phụ âm đứng cuối vần chính tả và âm đối ứng[sửa|sửa mã nguồn]
Chữ cái phụ âm đứng cuối từ chính từ Âm đối ứng Chú giải
phương ngữ miền Bắc Phương ngữ miền Nam
c
ch
m
n
nh
p
s
t

Thanh điệu chính tả và thanh điệu ngữ âm đối ứng[sửa|sửa mã nguồn]

Tiếng Việt là ngôn từ thanh điệu, mọi âm tiết của tiếng Việt đều luôn mang một thanh điệu nào đó. Phương ngôn tiếng Việt miền Bắc có sáu thanh điệu, phương ngôn tiếng Việt miền Trung và miền Nam có năm thanh điệu .

So sánh điệu trị thanh điệu các phương ngôn tiếng Việt
Thanh điệu Bắc Bộ Bắc Trung Bộ Trung Bộ Nam Bộ
Vinh Thanh
Chương
Hà Tĩnh
ngang ˧ 33 ˧ ˥ 35 ˧ ˥ 35 ˧ ˥ 35, ˧ ˥ ˧ 353 ˧ ˥ 35 ˧ 33
huyền ˨ ˩ ̤ 21 ̤ ˧ 33 ˧ 33 ˧ 33 ˧ 33 ˨ ˩ 21
sắc ˧ ˥ 35 ˩ 11 ˩ 11, ˩ ˧ ̰ 13 ̰ ˩ ˧ ̰ 13 ̰ ˩ ˧ ̰ 13 ̰ ˧ ˥ 35
hỏi ˧ ˩ ˧ ̰ 31 ̰ 3 ˧ ˩ 31 ˧ ˩ 31 ˧ ˩ ̰ ʔ 31 ̰ ʔ ˧ ˩ ˨ 312 ˨ ˩ ˦ 214
ngã ˧ ʔ ˥ 3 ʔ5 ˩ ˧ ̰ 13 ̰ ˨ ̰ 22 ̰
nặng ˨ ˩ ̰ ʔ 21 ̰ ʔ ˨ 22 ˨ ̰ 22 ̰ ˨ ̰ 22 ̰ ˨ ˩ ˨ 212

Trừ thanh ngang không có ký hiệu riêng để biểu lộ ( thế cho nên mà 1 số ít người gọi nó là ” thanh không dấu ” ), chữ quốc ngữ dùng năm ký hiệu gọi là ” dấu thanh ” hoặc ” dấu “, để bộc lộ thanh điệu của tiếng Việt .

Quy tắc sử dụng i và y[sửa|sửa mã nguồn]

Hai chữ ” i ” và ” y ” đều được gọi là ” i “, khi cần phân biệt thì dựa theo hình dạng của chúng chữ ” i ” được gọi là ” i ngắn ” ( vì chiều cao in thường của nó ngắn hơn chữ ” y ” ), chữ ” y ” được gọi là ” y dài “. Cái tên ” i grec ” của chữ ” y ” là do nó được vay mượn từ chữ Upxilon của bảng vần âm Hy Lạp, nên tên gọi của nó trong tiếng Latinh, tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Pháp đều có nghĩa là ” chữ i Hy Lạp “. Trong tiếng Hy Lạp tân tiến ( thường được tính mốc là mở màn từ năm 1453 khi Đế quốc Đông La Mã sụp đổ ) chữ ” y ” bộc lộ nguyên âm / i /. Trong tiếng Latinh chữ ” i ” ( còn được viết là ” j ” ) bộc lộ hai nguyên âm / ɪ /, / iː / và phụ âm / j /. Trong chữ quốc ngữ, chữ ” i ” cũng được dùng để ghi lại âm vị / i / và / j / giống như tiếng Latinh nhưng không phải khi nào hai âm vị / i / và / j / cũng được ghi lại bằng vần âm ” i “, trong một số ít trường hợp chúng được ghi lại bằng chữ ” y ” .Các giáo sĩ phương Tây khi đặt ra chữ quốc ngữ vì sợ rằng nếu ghi nguyên âm / i / ở đầu từ bằng vần âm ” i ” thì những người biết tiếng Latinh hoàn toàn có thể hiểu nhầm chữ ” i ” ở đây biểu lộ phụ âm / j / dẫn tới đọc sai từ nên đã ghi nguyên âm / i / ở đầu từ bằng vần âm Hy Lạp ” y ” ( vì trong tiếng Hy Lạp văn minh, vần âm ” y ” cũng biểu lộ phụ âm / i / giống như vần âm ” i ” trong chữ quốc ngữ ) .Hai vần ” ay ” / aj / và ” ai ” / aːj / đều mang nguyên âm / a / và bán nguyên âm / j /, cái tạo nên sự độc lạ trong cách phát âm của hai vần này là trường độ của nguyên âm / a /. Vần ” ay ” chứa nguyên âm a ngắn / a /, vần ” ai ” / aːj / chứa nguyên âm a dài / aː /. Sự độc lạ trong cách phát âm của hai vần ” ây ” / əj / và ” ơi ” / əːj / cũng nằm ở trường độ của nguyên âm, vần ” ây ” / əj / chứa nguyên âm ơ ngắn / ə /, vần ” ơi ” / əːj / chứa nguyên âm ơ dài / əː /. Chữ quốc ngữ đã có chữ ” ă ” để bộc lộ nguyên âm a ngắn nhưng những giáo sĩ phương Tây đã không dùng chữ này để ghi lại nguyên âm a ngắn trong vần ” ay “. Vì muốn hạn chế dùng những vần âm có dấu nên họ đã dùng chữ ” a ” để ghi lại cả nguyên âm a dài lẫn nguyên âm a ngắn trong vần ” ai ” và ” ay “. Để phân biệt hai vần này họ dùng hai vần âm ” i ” và ” y ” để ghi lại bán nguyên âm / j / trong hai vần ” ay ” và ” ai “. Với vần ” ai ” họ dùng chữ ” i “, với vần ” ay ” họ dùng chữ ” y “. Hai chữ ” i ” và ” y ” ở đây ngoài việc biểu lộ bán nguyên âm / j / trong hai vần ra còn báo cho người đọc biết nguyên âm đứng trước nó là nguyên âm dài hay nguyên âm ngắn, ” i ” bộc lộ nguyên âm dài, ” y ” bộc lộ nguyên âm ngắn. Để cho đồng điệu bán nguyên âm / j / trong vần ” ây ” ( chứa nguyên âm ơ ngắn ) được ghi bằng chữ ” y “, còn trong vần ” ơi ” ( chứa nguyên âm ơ dài ) nó được ghi lại bằng chữ ” i “. Vần ” uy ” / wi / viết là ” uy “, vần ” ui ” / uj / viết là ” ui ” ( uy và ui đều mang bán nguyên âm / j /, / w / và / u / được ghi lại bằng cùng một chữ ” u ” giống như những vần khác ). Vần ” uy ” đứng sau ” q ” viết là ” u ” như châu Âu ( quy ) .Ngoài những trường hợp kể trên ra, trong những trường hợp còn lại nguyên âm / i / và bán nguyên âm / j / phải được viết bằng vần âm ” i ” .Nguyên nhân dẫn đến việc dùng hai chữ i dài i ngắn trong chữ quốc ngữ là như trên nhưng từ thuở bắt đầu của chữ quốc ngữ đến nay vì nhiều nguyên do như do không biết nguồn gốc của hai chữ i ngắn y dài trong chữ quốc ngữ, do thói quen cố hữu, theo thẩm mỹ quan cá thể ( thấy ở trường hợp này trường hợp kia viết với chữ i hay chữ y thì dễ nhìn hơn ), bắt chước theo cách viết của người khác vân vân, nguyên tắc sử dụng i và y đặt ra lúc bắt đầu liên tục bị vi phạm. Ngay cả những giáo sĩ phương Tây cũng không tuân thủ triệt để. Người ta chỉ nỗ lực viết đúng y dài i ngắn để phân biệt hai vần ” ay ” và ” ai “, trong những trường hợp khác người ta tùy tiện viết y dài i ngắn theo ý mình .Trong phương ngữ tiếng Việt miền Nam, nguyên âm / a / luôn là một nguyên âm dài khi đứng trước bán nguyên âm / j /, không còn sự trái chiều về trường độ của nguyên âm / a / nữa, do đó ” ay ” và ” ai ” trong phương ngữ miền Nam là đồng âm, đều được phát âm là / aj /. Vì ” ay ” và ” ai ” trong phương ngữ miền Nam chỉ là hai cách viết khác nhau theo quy ước chính tả của cùng một vần nên người miền Nam hay viết sai chính tả những từ có ” ay ” và ” ai “, chỗ theo chính tả phải viết là ” ay ” thì lại viết ” ai ” và ngược lại, chỗ phải viết là ” ai ” thì lại viết là ” ay ” .Nhằm chấm hết thực trạng viết i ngắn i dài lung tung, đã có 1 số ít người, cơ quan, tổ chức triển khai đặt ra quy tắc sử dụng i và y của riêng mình, pháp luật khi nào viết chữ i, khi nào viết chữ y. Các quy tắc này thường không xét đến nguyên do những giáo sĩ phương Tây đưa hai chữ i ngắn i dài vào chữ quốc ngữ .

Quy tắc sử dụng iy trong sách giáo khoa

[sửa|sửa mã nguồn]

  • Nguyên âm trong các âm tiết mở, viết i ngắn: kĩ (thuật), lí (thuyết), mĩ (thuật), hi (vọng), (nghệ) sĩ,…
  • Nguyên âm đứng một mình (âm tiết độc lập) thì sẽ viết i ngắn nếu là từ thuần Việt: ỉ (eo), ì (à) ì (ạch), (béo) ị, (ầm) ĩ,… và y dài, nếu là từ Hán Việt: ý (kiến), (lưu) ý, y (sĩ), (chuẩn) y
  • Nguyên âm đứng đầu âm tiết, có tổ hợp nguyên âm hoặc nguyên âm đôi, viết y dài: yêu (quý), yểu (điệu), yến (tiệc), yêng (hùng), huỳnh huỵch
  • Trong các âm tiết nửa mở, nếu là tổ hợp nguyên âm [wi], như trong các từ quy (tắc), (thâm) thúy, (ma) túy, (xương) tủy, quỵ lụy… thì viết y dài. Nếu là tổ hợp nguyên âm [uj], như trong các từ cúi (đầu), túi (quần), tủi (hổ), xúi (bẩy), (tàn) lụi… thì viết i ngắn.

Trừ tên riêng, đề xuất tương đối hợp lý[61] cách dùng hai chữ i ngắny dài hiện nay như sau:

  • Đối với các âm tiết có phụ âm đầu /ʔ/, âm đệm /Ø/, âm chính /i/ và âm cuối /Ø/, thì có hai cách viết:
    1. Dùng “i” trong các trường hợp từ thuần Việt, cụ thể là: i – i tờ; ì – ì, ì ạch, ì à ì ạch, ì ầm, ì oạp; ỉ – lợn ỉ, ỉ eo, ỉ ôi; í – í a í ới, í oắng, í ới; ị – ị, béo ị
    2. Dùng “y” trong các trường hợp còn lại (thường là từ Hán-Việt), ví dụ: y – y tế, y nguyên, y phục; ỷ – ỷ lại; ý – ý nghĩa, ý kiến…
  • Đối với các âm tiết có âm đệm /Ø/ và âm chính /iə/ thì dùng “i”. Ví dụ: chịa, đĩa, tía… kiến, miền, thiến… Trừ trường hợp có âm đầu /ʔ/ và âm cuối không /Ø/ thì dùng “y”: yếm, yến, yêng, yêu…
  • Đối với các âm tiết có âm đệm /w/, âm chính là /i/ hoặc /iə/ thì dùng “y”. Ví dụ: huy, quý, quýt… khuya, tuya, xuya… quyến, chuyền, tuyết, thuyết…
  • Việc biểu diễn nguyên âm /i/ trong các trường hợp còn lại (âm đệm /Ø/) thì dùng “i”. Ví dụ: inh, ích, ít… bi, chi, hi, kì, khi, lí, mì, phi, ti, si, vi… bình, chính, hít, kim, lịm, mỉm, nín, phình, tính, sinh, vinh…
  • Việc biểu diễn âm cuối /-j/ không có gì thay đổi, vẫn dùng “y” trong các trường hợp có nguyên âm chính ngắn: (bàn) tay, (thợ) may, tây, sấy… và dùng “i” trong các trường hợp còn lại: (lỗ) tai, (ngày) mai, cơi, coi, côi…
  • Dùng “i” trong trường hợp các tiếng có phụ âm đầu + vần “i” (ví dụ: lí, mĩ, kĩ, thi, sĩ…) đều thống nhất viết bằng “i” (i ngắn). Ví dụ: lí luận, lí tưởng, thi sĩ, nước Mĩ, Hoa Kì, bánh mì, kỉ niệm, v.v… mà không viết “y” (y dài) như trước đây. Đây là quy định của Bộ Giáo dục Việt Nam từ năm 1963[cần dẫn nguồn] (Có lẽ tác giả đoạn này lầm lẫn 1983 – 1984 thành 1963 ?). Hiện nay Nhà xuất bản Giáo dục vẫn thực hiện nghiêm chỉnh quy định này trong việc in Sách giáo khoa các loại.
    • Theo quy định của Bộ giáo dục (1984) có quy định cách viết ” I ” như sau:

– Nếu không có sự đổi khác về âm và nghĩa, trừ trường hợp ” Y ” đứng sau ” QU “, hầu hết những từ có âm ” I ” ở cuối đều được viết thống nhất bằng ” I “. Thí dụ : Hi sinh, kỉ niệm, lí luận, thẩm mĩ, … – Nếu ” I ” hoặc ” Y ” đứng một mình, đứng đầu từ hoặc ở giữa từ, ta viết theo thói quen cũ. Thí dụ : ý nghĩa, y tế, yêu thương, Nguyễn Khuyến, …

Cách dùng “i” hoặc “y” kiểu cũ thì thường căn cứ vào Hán Việt Từ điển của Đào Duy Anh (1931).[62] Theo đó thì “y” được dùng thay “i” với những từ gốc Hán Việt nếu đứng sau các phụ âm h, k, l, m, t, và q (qu). Vì vậy nên có “ngựa “, “ tay” (gốc Nôm) nhưng “song hỷ“, “tỵ nạn” (gốc Hán Việt). Những phụ âm khác thì vẫn dùng “i” như “tăng ni” chứ không có ny (tuy nhiên có ca sĩ mang tên là “Tố Ny” từng tham gia chương trình Giọng Hát Việt). Người Việt ở hải ngoại dạy tiếng Việt cho trẻ em dùng mẹo để nhớ sáu phụ âm trên bằng câu “học mau lên kẻo ta quên”.

Quy tắc lưu lại thanh[sửa|sửa mã nguồn]

Trong những nguyên âm đôi và ba có tối thiểu hai cách đặt dấu phụ lên chúng, trong đó một cách ( ” cách mới ” ) dựa trên kim chỉ nan ngôn ngữ học .Trong xếp thứ tự vần âm, những vần âm được ưu tiên, tiếp sau là dấu âm, dấu thanh điệu, và ở đầu cuối là chữ hoa / chữ thường. Quá trình ưu tiên này được triển khai lần lượt trên những âm tiết. Ví dụ một từ điển sẽ xếp ” tuân thủ ” trước ” tuần chay ” .Có nhiều quan điểm khác nhau về việc vị trí đặt dấu thanh, một trong những quan điểm đó như sau :

  1. Với các âm tiết [-tròn môi] (âm đệm /Ø/) có âm chính là nguyên âm đơn: Đặt dấu thanh điệu vào vị trí của chữ cái biểu diễn cho âm chính đó. Ví dụ: á, tã, nhà, nhãn, gánh, ngáng…
  2. Với các âm tiết [+tròn môi] (âm đệm /w/, được biểu diễn bằng “o, u”) có âm chính là nguyên âm đơn thì cũng bỏ dấu thanh điệu vào vị trí chữ cái biểu diễn cho âm chính. Ví dụ: hoà, hoè, quỳ, quà, quớ, thuỷ, nguỵ, hoàn, quét, quát, quỵt, suýt, loã, tuế,…
  3. Với các âm tiết có âm chính là nguyên âm đôi:
    • Nếu là âm tiết [-khép] (nguyên âm được viết là: “iê, yê, uô, ươ”; âm cuối được viết bằng: “p, t, c, ch, m, n, ng, nh, o, u, i”) thì bỏ dấu lên chữ cái thứ hai trong tổ hợp hai chữ cái biểu diễn cho âm chính. Ví dụ: yếu, uốn, ườn, tiến, chuyến, muốn, mượn, thiện, thuộm, người, viếng, muống, cường…
    • Nếu là âm tiết [+khép] (nguyên âm được viết là: “ia, ya, ua, ưa”) thì nhất loạt bỏ dấu vào vị trí chữ cái thứ nhất trong tổ hợp hai chữ cái biểu diễn cho âm chính. Ví dụ: tỉa, tủa, cứa, thùa, khứa, ứa,…
  4. Phân biệt vị trí đặt dấu thanh điệu ở tổ hợp “ua” và “ia”:
    • Với “ia” thì phân biệt bằng sự xuất hiện hay vắng mặt của chữ cái “g” ở đầu âm tiết. Có “g” thì đặt vào “a” (già, giá, giả…), không có “g” thì đặt vào “i” (bịa, chìa, tía…). Trường hợp đặc biệt: “gịa” (trong từ “giặt gịa”, có nghĩa là “giặt giũ”) – cách đọc: ghép phụ âm “gi” với nguyên âm kép “ịa”[63]; “gìn” (trong từ “giữ gìn”) – cách đọc: ghép phụ âm “gi” với vần “ìn”; “gì” – cách đọc: ghép phụ âm “gi” với nguyên âm đơn “ì”; tương tự: giếng; giêng; giềng; giết; gin.
    • Với “ua” thì phân biệt bằng sự xuất hiện hay vắng mặt của chữ cái “q”. Có “q” thì đặt vào “a” (quán, quà, quạ…), không có “q” thì đặt vào “u” (túa, múa, chùa…). Hoặc để giản tiện cho việc làm bộ gõ, có thể coi “qu” như là một tổ hợp phụ âm đầu tương tự như “gi, nh, ng, ph, th”… Khi đó, sẽ coi “quán, quà, quạ”… như là những âm tiết có âm đệm /Ø/.

Trong đời sống, hiện vẫn sống sót hai cách đặt dấu thanh trong tiếng Việt, vẫn Open trên cùng một văn bản, làm cho văn bản đẹp hơn, vẫn không sai. Ví dụ ” hòa ” là một cách đặt dấu thanh khác cho ” hoà “, trong đó ” hòa ” còn gọi là cách đặt dấu thanh ” cũ “. Bảng sau liệt kê những trường hợp mà hai cách đặt dấu thanh khác nhau :

Mới
òa, óa, ỏa, õa, ọa oà, oá, oả, oã, oạ
òe, óe, ỏe, õe, ọe oè, oé, oẻ, oẽ, oẹ
ùy, úy, ủy, ũy, ụy uỳ, uý, uỷ, uỹ, uỵ

Dấu câu dùng kèm chữ quốc ngữ[sửa|sửa mã nguồn]

Một số loại dấu thường dùng trong chữ Quốc ngữ

Dấu câu Ký tự Dấu câu Ký tự
Chấm . Chấm phẩy ;
Phẩy , Hai chấm :
Chấm hỏi ? Ngoặc đơn ()
Chấm than ! Ngoặc vuông [ ]
Chấm lửng Gạch ngang, gạch nối –, –
Nháy đơn ‘ ‘ Nhọn đơn ‹ ›
Ngoặc kép ” ” Nhọn kép « »
Gạch dưới _ Gạch chéo \ /

Nguồn gốc 1 số ít vần âm chữ quốc ngữ[sửa|sửa mã nguồn]

  • ă: Vay mượn từ tiếng Latinh. Trong tiếng Latinh dấu âm ngắn (˘) được thêm vào phía trên các chữ cái nguyên âm để biểu thị nguyên âm ngắn, “ă” biểu thị nguyên âm ngắn / a /. Nguyên âm ngắn và nguyên âm dài có cách phát âm giống nhau nhưng thời gian phát âm của nguyên âm dài dài hơn nguyên âm ngắn. “Ă” không được coi là một chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Latinh. Chữ quốc ngữ dùng chữ “ă” để biểu thị nguyên âm ngắn / a / khi có sự phân biệt về độ dài của nguyên âm / a /. Ví dụ: [ kan ] và [ kaːn ]) được lần lượt ghi lại bằng chữ quốc ngữ là “căn” và “can”.
  • â: Vay mượn từ tiếng Bồ Đào Nha. Trong tiếng Bồ Đào Nha “â” biểu thị nguyên âm / ɐ / và / ɐ ̃ /. Hai nguyên âm / ɐ / và / ɐ ̃ / trong tiếng Bồ Đào Nha là nguyên âm đọc mạnh, dấu mũ (ˆ) phía trên chữ a biểu thị độ cao của chúng. “” không được coi là một chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Bồ Đào Nha. Chữ quốc ngữ dùng chữ “â” để biểu thị nguyên âm ngắn / ə / khi có sự phân biệt về độ dài của nguyên âm / ə /, dấu mũ (ˆ) phía trên chữ a biểu thị đây là nguyên âm dài. Nguyên âm ngắn và nguyên âm dài có cách phát âm giống nhau nhưng thời gian phát âm của nguyên âm dài dài hơn nguyên âm ngắn. Ví dụ: [ kən ] và [ kəːn ]) lần lượt được ghi bằng chữ quốc ngữ là “cân” và “cơn”.
  • c: Vay mượn từ tiếng Bồ Đào Nha. Trong tiếng Bồ Đào Nha chữ “c” khi đứng trước “a”, “o”, “u” sẽ biểu thị phụ âm / k /, khi đứng trước “e”, “i” sẽ biểu thị phụ âm / s /. Chữ quốc ngữ dùng chữ “c” để biểu thị phụ âm / k /. Vì trong tiếng Bồ Đào Nha chữ “c” khi đứng trước “e”, “i” sẽ biểu thị phụ âm / s / nên để tránh cho những người biết tiếng biết Bồ Đào Nha khỏi đọc sai, trong chữ quốc ngữ phụ âm đầu / k / được ghi lại bằng chữ “c” khi sau nó là nguyên âm “a”, “ă”, “â”, “o”, “ô”, “ơ”, “u”, “ư”, ghi bằng chữ “k” nếu sau nó là nguyên âm “e”, “ê”, “i”. Ví dụ: / kɛɔ / được ghi lại bằng chữ quốc ngữ là “keo”, không được viết là “ceo”.
  • ch: Vay mượn từ tiếng Bồ Đào Nha. Trong tiếng Bồ Đào Nha chữ cái ghép đôi “ch” biểu thị phụ âm / ʃ /. Chữ quốc ngữ đã mượn chữ cái ghép đôi “ch” của tiếng Bồ Đào Nha để ghi một phụ âm trong tiếng Việt có cách phát âm gần giống với phụ âm / ʃ / trong tiếng Bồ Đào Nha là / c /.Phương ngữ miền Nam có sự lẫn lộn “CH” thành “T” cho phụ âm cuối.
  • d: Trong hầu hết các hệ thống chữ viết dựa trên chữ Latinh chữ “d” thường dùng để ghi lại phụ âm /d/ hoặc /d̪/ nhưng vì trong tiếng Việt trung đại (và cả tiếng Việt hiện đại) không có hai phụ âm này nên chữ “d” được dùng để ghi lại một phụ âm trong tiếng Việt trung đại có cách phát âm gần giống là / ð /. Phụ âm / ð / không còn tồn tại trong tiếng Việt hiện đại, nó đã biến đổi thành phụ âm / z / trong phương ngữ Bắc và phụ âm / j / trong phương ngữ Nam.
  • đ: Chữ này được tạo thành bằng cách thêm một nét gạch ngang ngắn vào chữ “d” để ghi lại phụ âm / ɗ /, ý là cách phát âm của phụ âm / ɗ / có phần giống với phụ âm / d / và / t /.
  • ê: Vay mượn từ tiếng Bồ Đào Nha. Trong tiếng Bồ Đào Nha “ê” biểu thị nguyên âm / e / và nguyên âm đôi / əj /. Nguyên âm / e / trong tiếng Bồ Đào Nha là nguyên âm đọc nặng, dấu mũ (ˆ) phía trên chữ e biểu thị độ cao của nó. “Ê” không được coi là một chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Bồ Đào Nha. Chữ quốc ngữ dùng chữ “ê” để biểu thị nguyên âm / e / và / ə / (trong nguyên âm đôi “iê” / iə /).
  • g: Vay mượn từ tiếng Bồ Đào Nha. Trong tiếng Bồ Đào Nha chữ cái “g” khi đứng trước “a”, “o”, “u” sẽ biểu thị phụ âm / ɡ /, khi đứng trước “e”, “i” sẽ biểu thị phụ âm / ʒ /. Chữ quốc ngữ mượn chữ cái “g” của tiếng Bồ Đào Nha để ghi lại một phụ âm trong tiếng Việt có cách phát âm gần giống với / ɡ / là / ɣ /. Vì trong tiếng Bồ Đào Nha chữ cái “g” khi đứng trước “e”, “i” sẽ biểu thị phụ âm / ʒ / nên để tránh cho người biết tiếng Bồ Đào Nha khỏi đọc sai chữ quốc ngữ chữ ghép đôi “gh” mượn từ tiếng Ý để ghi lại / ɣ / khi sau nó là nguyên âm “e”, “ê”, “i”. Ví dụ: / ɣo /, / ɣe / lần lượt được ghi bằng chữ quốc ngữ ghi là “gỗ”, “ghế”, không viết là “ghỗ”, “gế”.
  • gh: Vay mượn từ tiếng Ý. Trong tiếng Ý chữ cái “g” biểu thị phụ âm / ɡ / khi đứng trước “a”, “o”, “u”, biểu thị phụ âm / d ͡ ʒ / khi đứng trước “e”, “i”. Phụ âm / ɡ / khi đi với nguyên âm “e”, “i” sẽ được ghi lại bằng “gh”. Chữ quốc ngữ mượn chữ “g” của tiếng Bồ Đào Nha để ghi lại phụ âm / ɣ / của tiếng Việt. Trong tiếng Bồ Đào Nha cũng có hiện tượng “g” khi đứng trước “e”, “i” đọc khác với “g” đứng trước “a”, “o”, “u”. Để tránh cho những người biết tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Ý khỏi đọc sai, trong chữ quốc ngữ phụ âm / ɣ / sẽ được ghi lại bằng chữ ghép đôi “gh” mượn từ tiếng Ý khi sau nó là nguyên âm “e”, “ê”, “i”. Ví dụ: / ɣe /, / ɣo / lần lượt được ghi bằng chữ quốc ngữ ghi là “ghế” “gỗ”, không viết là “gế”, “ghỗ”.
  • gi: Vay mượn từ tiếng Ý. Trong tiếng Ý chữ cái “g” biểu thị phụ âm / ɡ / khi đứng trước “a”, “o”, “u”, biểu thị phụ âm / d ͡ ʒ / khi đứng trước “e”, “i”. Khi sau “g” là “i”, sau “i” là “a”, “o”, “u” thì “i” không ghi lại âm vị nào, nó chỉ đóng vai trò là một chỉ báo về cách phát âm của chữ “g” đứng trước nó, cho biết rằng chữ “g” ở đây biểu thị phụ âm / d ͡ ʒ / chứ không phải là / ɡ /. Vì phụ âm / ʝ / của tiếng Việt trung đại có cách phát âm gần giống với phụ âm / d ͡ ʒ / của tiếng Ý nên chữ quốc ngữ đã mượn “gi” của tiếng Ý để ghi lại phụ âm / ʝ / và âm tiết / ʝi / của tiếng Việt trung đại. Trong phương ngữ Bắc và phương ngữ Nam của tiếng Việt hiện đại phụ âm / ʝ / không còn tồn tại, nó đã biến đổi thành phụ âm / z / trong phương ngữ Bắc và phụ âm / j / trong phương ngữ Nam. Ngày nay, “dàn” và “giàn”, “dì” và “gì” trong hai phương ngữ Bắc và Nam là đồng âm.
  • i: Không rõ từ đâu trong phương ngữ miền Nam, nếu ghép với một phụ âm cuối thì đa số đọc thành “Ư” ngoại trừ “M”. Thí dụ: Inh/ưn,it/ưt,ích/ứt
  • k: Vay mượn từ tiếng Hy Lạp. Trong tiếng Hy Lạp chữ cái “k” biểu thị phụ âm / k /. Trong chữ quốc ngữ phụ âm đầu / k / được ghi lại bằng chữ “k” khi sau nó là nguyên âm “e” / ɛ /, “ê” / e /, “i/y” / ɛ /, ghi bằng chữ “c” khi sau nó là nguyên âm “a”, “ă”, “â”, “o”, “ô”, “ơ”, “u”, “ư”. Mục đích là để tránh cho những người biết tiếng Bồ Đào Nha khỏi đọc sai vì trong tiếng Bồ Đào Nha chữ “c” khi đứng trước ba chữ “e”, “i”, “y” sẽ biểu thị phụ âm / s /, chứ không phải là phụ âm / k /.
  • kh: Bắt nguồn từ cách chuyển tự các phụ âm bật hơi của tiếng Hy Lạp cổ đại sang chữ Latinh. Các phụ âm bật hơi trong tiếng Hy Lạp cổ đại được chuyển tự sang chữ Latinh bằng cách lấy một chữ cái biểu thị một phụ âm có cách phát âm tương tự với phụ âm cần chuyển tự nhưng không bật hơi rồi thêm chữ “h” vào phía sau. Phụ âm bật hơi / kʰ / của tiếng Hy Lạp cổ đại (trong tiếng Hy Lạp được ghi bằng chữ “χ”) được chuyển tự sang tiếng Latinh thành “ch”. Tiếng Việt trung đại cũng có phụ âm / kʰ /. Chữ quốc ngữ đã phỏng theo cách thức chuyển tự trên để ghi lại phụ âm / kʰ / của tiếng Việt trung đại bằng chữ cái ghép đôi “kh” (chữ cái ghép đôi “ch” đã dùng để ghi lại một phụ âm khác của tiếng Việt). Trong tiếng Việt hiện đại phụ âm / kʰ / không còn tồn tại trong phương ngữ Bắc, nó đã biến đổi thành phụ âm / x /, phương ngữ Nam thì vẫn còn phụ âm này.
  • nh: Vay mượn từ tiếng Bồ Đào Nha. Trong tiếng Bồ Đào Nha và quốc ngữ chữ cái ghép đôi “nh” đều biểu thị phụ âm / ɲ /.
  • ô: Vay mượn từ tiếng Bồ Đào Nha. Trong tiếng Bồ Đào Nha chữ o với dấu mũ dấu mũ (ˆ) “ô” biểu thị nguyên âm / o /. Nguyên âm / o / trong tiếng Bồ Đào Nha là nguyên âm đọc nặng, dấu mũ (ˆ) phía trên chữ o biểu thị độ cao của nó. “Ô” không được coi là một chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Bồ Đào Nha. Chữ quốc ngữ cũng dùng chữ “ô” đề biểu thị nguyên âm / o / giống như trong tiếng Bồ Đào Nha.
  • ph: Bắt nguồn từ cách chuyển tự các phụ âm bật hơi của tiếng Hy Lạp cổ đại sang chữ Latinh. Các phụ âm bật hơi trong tiếng Hy Lạp cổ đại được chuyển tự sang chữ Latinh bằng cách lấy một chữ cái biểu thị một phụ âm có cách phát âm tương tự với phụ âm cần chuyển tự nhưng không bật hơi rồi thêm chữ “h” vào phía sau. Phụ âm bật hơi / pʰ / của tiếng Hy Lạp cổ đại (trong tiếng Hy Lạp được ghi bằng chữ “φ”) được chuyển tự sang tiếng Latinh thành “ph”. Tiếng Việt trung đại cũng có phụ âm / pʰ / nên chữ quốc ngữ đã mượn chữ cái ghép đôi “ph” để ghi lại / pʰ / của tiếng Việt trung đại. Phụ âm / pʰ / không còn tồn tại trong tiếng Việt hiện đại, nó đã biến đổi thành phụ âm / f /.
  • s: Vay mượn từ tiếng Bồ Đào Nha. Đa số phát âm “S” thành “X”.
  • th: Bắt nguồn từ cách chuyển tự các phụ âm bật hơi của tiếng Hy Lạp cổ đại sang chữ Latinh. Các phụ âm bật hơi trong tiếng Hy Lạp cổ đại được chuyển tự sang chữ Latinh bằng cách lấy một chữ cái biểu thị một phụ âm có cách phát âm tương tự với phụ âm cần chuyển tự nhưng không bật hơi rồi thêm chữ “h” vào phía sau. Phụ âm bật hơi / tʰ / của tiếng Hy Lạp cổ đại (trong tiếng Hy Lạp được ghi bằng chữ “τ”) được chuyển tự sang tiếng Latinh thành “th”. Tiếng Việt cũng có phụ âm / tʰ / nên chữ quốc ngữ đã mượn chữ cái ghép đôi “th” để ghi lại phụ âm / tʰ / của tiếng Việt.Người Thủ Dầu Một xưa kia đa số phát âm sai “TH” thành “KH”.
  • x: Vay mượn từ tiếng Bồ Đào Nha. Trong tiếng Bồ Đào Nha chữ cái “x” khi đứng đầu từ luôn biểu thị phụ âm / ʃ /. Chữ quốc ngữ dùng chữ “x” để ghi lại một phụ âm của tiếng Việt trung đại có cách phát âm gần giống với phụ âm / ʃ / là / ɕ /. Phụ âm / ɕ / không còn tồn tại trong tiếng Việt hiện đại, nó đã biến đổi thành phụ âm / s /.

Vị thế pháp lý của chữ Quốc ngữ[sửa|sửa mã nguồn]

Tuy bộ chữ Latinh cho tiếng Việt thường được gọi là “chữ Quốc ngữ”, nó chỉ được xem như là một bộ chữ viết phổ thông thường dùng trên thực tế cho tiếng Việt hiện nay. Không có bất kỳ văn bản pháp lý nào ở cấp nhà nước quy định hay công nhận chữ Latinh là “Quốc tự” (chữ viết quốc gia) hay “văn tự chính thức”.[64] Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013, chương I điều 5 mục 3 ghi là “Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt“, khẳng định tiếng Việt là Quốc ngữ nhưng không đề cập tới “Quốc tự”.[65]

Ở các văn bản thuộc lĩnh vực hành chính, tiếng Việt thường được viết bằng chữ Quốc ngữ theo “Quy định về chính tả tiếng Việt và về thuật ngữ tiếng Việt” áp dụng cho các sách giáo khoa, báo và văn bản của ngành giáo dục, nêu tại Quyết định của Bộ Giáo dục số 240/QĐ ngày 5 tháng 3 năm 1984[40]. Ngoài lĩnh vực này, không có quy định nào yêu cầu người Việt trong đời sống hiện nay chỉ được viết tiếng Việt bằng chữ Quốc ngữ và cấm viết tiếng Việt bằng chữ Hán và chữ Nôm. Hiến pháp chương I điều 5 mục 3 cũng ghi “Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình”, nên nếu có bộ luật hay quy định nào đó được đặt ra để cấm người Việt hiện tại viết tiếng Việt bằng chữ Hán và chữ Nôm như người Việt xưa thì sẽ là một bộ luật vi hiến.

Dù chữ Latinh cho tiếng Việt đã được tạo ra bởi những tu sĩ Dòng Tên của Bồ Đào Nha và Ý vào thế kỷ XVII, nhưng sau 200 năm thì tiếng Việt vẫn được viết phổ cập bằng chữ Hán và chữ Nôm. Chính quyền phong kiến cũng không có luật công nhận văn tự chính thức, nên lúc đó vị thế của chữ Hán và chữ Nôm cũng chưa phải là Quốc tự. Tuy vậy chữ Nôm khi đó cũng hay được gọi là ” Quốc âm “, ” Quốc ngữ “. Người Việt cũng không có nguyên do gì để biến hóa chữ viết phổ cập, nên chữ Latinh cho tiếng Việt khi đó thường được dùng trong khoanh vùng phạm vi xung quanh những nhà truyền giáo .Phải đến thời kỳ Pháp thuộc ở cuối thế kỷ XIX, sau sự xâm lược của Thực dân Pháp, chính quyền sở tại Đông Dương ở Nam Kỳ đưa ra những pháp luật pháp lý bảo lãnh chữ Latinh cho tiếng Việt thay thế sửa chữa chữ Hán và chữ Nôm, để khiến tiếng Việt đồng văn tự với tiếng Pháp cũng sử dụng chữ Latinh. Đồng thời chữ Latinh cho tiếng Việt cũng mở màn được gọi là chữ Quốc ngữ. Sang thế kỷ XX, lan rộng ra chủ trương dùng chữ Quốc ngữ ra Bắc Kỳ. [ 22 ] Từ đó tiếng Việt được viết thông dụng bằng chữ Latinh. Người Việt cũng dần bị ” mù chữ ” so với chữ Hán và chữ Nôm .Theo tư liệu trong ” Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Hội Truyền bá Quốc ngữ ( 25/5/1938 ) ” do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức triển khai ngày 25/5/2008, [ 66 ] [ 67 ] thì Hội sinh ra ngày 25/5/1938. Ngày 29/7/1938, Thống sứ Bắc Kỳ là người Pháp công nhận sự hợp pháp của Hội, và Hội cho rằng đó là dấu mốc chắc như đinh cho vị thế ” chữ Quốc ngữ ” của chữ Latinh cho tiếng Việt. Việc cổ động cho học ” chữ Quốc ngữ ” ở Nước Ta gắn với những trào lưu cải cách trong tiến trình 1890 – 1910 như Hội Trí Tri, trào lưu Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục và ngành báo chí truyền thông mới hình thành, đã thừa nhận và cổ vũ học ” chữ Quốc ngữ “, coi là phương tiện đi lại thuận tiện cho học tập nâng cao dân trí [ 66 ] .Theo Tiến sĩ Trần Trọng Dương, sắc lệnh số 20 do Võ Nguyên Giáp ký năm 1945 ” có lao lý về việc sử dụng chữ Quốc ngữ và coi đó là chữ viết của nước mình. ” [ 68 ]

Vấn đề nâng cấp cải tiến chữ Quốc ngữ[sửa|sửa mã nguồn]

Từ giữa thế kỷ 20, 1 số ít người chăm sóc tìm cách nâng cấp cải tiến chữ Quốc ngữ, và cho rằng cần làm giản tiện và hợp lý hơn. Tuy nhiên, nâng cấp cải tiến chữ viết là việc làm khó khăn vất vả, phải được hàng triệu người gật đầu, nên thực ra chưa có nâng cấp cải tiến nào được ứng dụng .

Nổi bật nhất trong các đề xuất của giới ngôn ngữ học thời kì này là bản Dự thảo Phương án cải tiến chữ Quốc ngữ bước đầu (vào năm 1960-1961) của Giáo sư Hoàng Phê. Ông đã dựa vào cơ sở phân tích hệ thống ngữ âm tiếng Việt đã được các nhà Việt ngữ học (những người chuyên về âm vị học tiếng Việt) cơ bản chấp nhận. Bản dự thảo đã đề cập:

Các âm vị tiếng Việt và cách viết những âm vị ( gồm âm vị nguyên âm đơn, âm vị phụ âm ) ; Kết cấu âm tiết tiếng Việt và cách viết những âm tiết ; Vấn đề thêm vần mới và yếu tố viết liền. Để cụ thể hoá 1 số ít quan điểm về nguyên tắc đã trình diễn, ông nêu tóm tắt mấy điểm đề xuất nâng cấp cải tiến chữ quốc ngữ trong trong bước đầu :

  1. Bỏ H trong GH và NGH (vd: ghê >> gê, nghe >> nge, nghiêng >> ngiêng).
  2. Dùng F thay PH; D thay Đ; Z thay D và GI (vd: dân tộc >> zân tôc, đất nước>> dất nước, phương pháp >> fương fáp).[b]
  3. Nhất luật viết phụ âm k bằng K trong mọi trường hợp, thay cho C, và nghiên cứu thay cả cho Q (vd như “Đường kách mệnh”).
  4. Nhất luật viết nguyên âm i bằng I trong mọi trường hợp: i (học), iêu (thương), iết (kiến), (lạ), (thuật). v.v. Chỉ dùng Y để viết bán nguyên âm i trong ayây.
  5. Thêm W để viết bán nguyên âm u trong uy:uy, uya, uynh sẽ viết WI, WIA, WINH, và qui sẽ viết KWI (còn cui sẽ viết KUI).
  6. Thêm W là để có thể bỏ vần bất hợp lí UY; đồng thời cũng để chuẩn bị để dần dần, trong bước sau, dùng W viết bán nguyên âm U đứng trước nguyên âm, thay cho các con chữ O và U: oa, oe, uê, ươ, uy viết WA, WE, WÊ, WƠ, WI.
  7. Thực hiện viết liền những trường hợp rõ ràng là một từ (xãhội, káchmạng, chiếnsĩ, thiđua, chuẩnbị, fấnkhởi, vuivẻ, v.v.). Nói chung, các danh từ riêng cũng viết liền, trường hợp là tên người thì viết rời tên và họ (Việtnam, Hànội, Nguyễn Du, Trần Hưngđạo).[c]

Căn cứ vào những nội dung đó, GS Hoàng Phê thử cụ thể hóa bằng việc viết lại bản Tuyên ngôn Độc lập ( do quản trị Hồ Chí Minh đọc ngày 2/9/1945 ) .Xin trích hai đoạn khởi đầu :

TWIÊNNGÔN DỘCLẬP (do Hồ Chủtịch dọc ngằi 2-9-1945)

  • Tấtcả mọi người dều sinh ra có cwiền bìnhdẳng. Tạohóa cho họ những cwiền không ai cóthể xâmfạm được; trong những cwiền ấi, có cwiền dược sống, cwiền tựzo và cwiền mưucầu hạnhfúc.
  • Lời bấthủ ấi ở trong bản Twiênngôn Dộclập năm 1776 của nước Mĩ. Swi rộng ra, câu ấi có í nghĩa là: tấtcả các zântộc trên thếzới dều sinh ra bìnhdẳng; zântộc nào cũng có cwiền sống, cwiền sungsướng và cwiền tựzo…

Nguyên bản : TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP ( do Hồ quản trị đọc ngày 2-9-1945 )

  • Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
  • Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Hỗ trợ trên máy tính[sửa|sửa mã nguồn]

Các phông chữ Unicode chứa những vần âm tiếng Việt ; nằm rải rác trong phần ” Latin Cơ bản “, ” Latin-1 Thêm “, ” Latin Mở rộng-A “, ” Latin Mở rộng-B “, và Latin Mở rộng Thêm .Chữ quốc ngữ hoàn toàn có thể được bộc lộ trong ASCII dựa trên quy ước như VIQR. Trước khi Unicode được dùng thoáng đãng, những phông chữ TCVN3, VNI, và VISCII cũng đã được dùng để bộc lộ tiếng Việt. Ngày nay UTF-8 là mã hoá được dùng thoáng đãng trên máy tính cho tiếng Việt .Nhiều bàn phím máy tính không tương hỗ việc nhập trực tiếp những ký tự tiếng Việt. Điều này dẫn đến sự sinh ra của những ứng dụng được cho phép triển khai những giải pháp nhập ký tự tiếng Việt theo quy ước như Telex, VIQR hay VNI .

  1. ^ ” Phương ngữ miền Bắc ” nêu ở đây là giọng Thành Phố Hà Nội, nói là ” chẻ châu da xông chanh dành chứng dán “. Phương ngữ miền Bắc chính thức được coi là giọng vùng Tỉnh Nam Định – Tỉnh Thái Bình, nơi nói rõ là ” trẻ trâu ra sông tranh giành trứng rán “, và được xem là giọng chuẩn tiếng Việt. Nhiều nhà nghiên cứu và điều tra không ra xa TP.HN nên hay nói lộn giọng TP.HN là phương ngữ miền Bắc .
  2. ^ Nguyễn Dzoãn Cẩm Vân.Hầu hết những ngôn từ trên quốc tế và những bộ chuyển tự Latinh ( như pinyin romaji ) đều dùng chữ D cho âm / d / ( đờ ) và chữ Z cho âm / z / ( dờ ). Ngay chính văn viết của quản trị Hồ Chí Minh, thường sử dụng F thay PH, Z thay D, như trong Di chúc. Tên người Việt mở màn bằng chữ D thường bị người quốc tế đọc bằng âm / d /. Để tránh nhầm lẫn, môt số người thay thêm Z sau D thành Dz như Hồ Dzếnh
  3. ^ Giai đoạn đầu, những từ ghép hay từ phức bằng chữ Quốc ngữ thường viết có gạch nối ( vd : xã-hội, vui-vẻ, … ). Về sau cách viết này bị bỏ đi. Việc gạch nối không có là nguyên do chính khiến tên người Nước Ta lúc bấy giờ hay bị nhầm lẫn trong việc xác lập phần họ và phần tên, gây hiểu nhầm họ ( như họ Tôn và họ Tôn Thất ), và bị trộn lẫn bất hài hòa và hợp lý khi bị đảo ngược họ và tên trong ngôn từ phương tây như tiếng Anh, như trường hợp của ” Nguyễn Bùi Diễm Phúc ” ( họ bố-mẹ : ” Nguyễn ” và ” Bùi “, tên ” Diễm Phúc ” ), vì không có gạch nối hay viết liền, họ và tên bị xác lập sai và bị hòn đảo thành ” Phuc Bui Diem Nguyen ” thay vì ” Diem-Phuc Nguyen-Bui ” .
  • Modern Vietnamese của Phan Văn Giưỡng Nhà xuất bản Saigon lưu chiểu 6/2009
  • Sơ thảo tốc ký Việt Nam của Ngọc Quang bản quay Roneo 5/1974 và bản Phụ tên quay Roneo của CC VK nha CS đô thành Saigon.

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

(Tiếng Việt)

( Tiếng Anh )

Rate this post